THÁNG 8 NĂM 1945, NHỮNG THÁNG NGÀY KHÓ QUÊN TRƯỚC VÀ SAU – CÁCH MẠNG HAY CƯỚP CHÍNH QUYỀN?


CÁCH MẠNG THÁNG TÁM HAY CƯỚP CHÍNH QUYỀN? HẬU QUẢ?

Cờ Việt Minh (cộng sản) tại công trường Ba Đình

Kể từ khi tiếng súng đầu tiên Pháp tấn công vào Đà Nẵng năm 1858, đến hiệp ước Giáp Thân 1884 (còn gọi là hòa ước Patenotre) khởi đầu cho chế độ thuộc địa tại Việt Nam, đã có nhiều cao trào nổi dậy chống sự đô hộ của Pháp giành độc lập cho dân tộc.

Từ vua Hàm Nghi đến Phong Trào Cần Vương với vua Duy Tân, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, đến Phan Đình Phùng, anh hùng Yên Thế Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật, Phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách), rồi đến Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh) gốc cộng sản và còn biết bao anh hùng hào kiệt khác đã đổ xương máu cho nền độc lập dân tộc. Hầu hết những cá nhân, các nhóm, tổ chức đều phát xuất từ lòng yêu nước, muốn đánh đổ thực dân, ngoại trừ tổ chức Việt Minh của Hồ Chí Minh còn có mục tiêu khác là áp đặt chủ nghĩa cộng sản và chế độ độc tài toàn trị lên quê hương Việt Nam.

Năm 1945 là năm bản lề cho một sự thay đổi toàn diện và to lớn tại Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Đó là một khúc quanh lịch sử dẫn đến tháng Tám mà có người còn gọi là cuộc “Cách Mạng Tháng 8 nhằm mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân cho nước.” ???

Để hiểu rõ hơn về thực chất của “cách mạng tháng tám” nói trên chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại những mốc thời điểm quan trọng của lịch sử Việt Nam vào tiền bán thế kỷ thứ 20 này.

BỐI CẢNH THẾ KỶ XX ẢNH HƯỞNG ĐẾN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

Khởi đầu thế kỷ, Cách Mạng Tân Hợi thành công tại Trung Hoangày 10 tháng 10, 1911 (được gọi là ngày “song thập”) do Bác Sĩ Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) lãnh đạo, lật đổ nhà Mãn Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế đã kéo dài nhiều ngàn năm, thành lập nước Cộng Hòa Trung Hoa Dân Quốc, giành độc lập dân tộc, dân chủ tự do, dân quyền và dân sinh hạnh phúc phỏng theo các cuộc cách  mạng dân quyền và nhân quyền tại Mỹ và Pháp. Cách mạng Tân Hợi đã trở thành gương sáng cho các cuộc cách mạng dân quyền dân sinh tại Á Châu sau này.

Tại Nga, “Cách mạng tháng Mười” ngày 7 tháng 11, 1917 (còn được gọi là cách mạng xã hội chủ nghĩa, hay cách mạng cộng sản, cách mạng Bolshevik), Lênin và đảng cộng sản Bolshevik đã thành công cướp chính quyền từ chính phủ lâm thời được thành hình sau cuộc cách mạng tháng 2 năm 1917 đã lật đổ Nga hoàng. Ngày 30-12-1922, Lênin dựng ra nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết (gọi tắt là Liên Sô, hay Liên Xô) gồm Nga, Ukraine, Belarus, Armenia, Georgia, Azerbaijan. Năm 1925 kết nạp thêm Uzbekistan và Turkmenistan; năm 1929, sát nhập Tagikistan; năm 1940, sát nhập thêm 3 nước vùng Baltic: Latvia, Litva và Estonia.

Sau thế chiến thứ hai, các nước Đông Âu đều nằm dưới quyền thống trị của Liên Xô thông qua các chế độ độc tài tàn bạo. Do đi ngược với đạo lý bình thường của con người, Liên Bang Xô Viết tan rã vào năm 1991, kéo theo sự sụp đổ của nhiều nước cộng sản trên thế giới ngoại trừ Việt Nam, Trung Cộng, Cuba, Bắc Hàn… Chủ nghĩa cộng sản đã giết hại 100 triệu người theo The Black Book of Communism (Sách đen chủ nghĩa cộng sản). Chủ nghĩa này cũng gây ra nghèo đói khốn khổ cho các quốc gia mà nó đi ngang qua, thua xa các nước theo thể chế dân chủ tự do, kinh tế trị trường. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử không thể chối cãi.

NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh (còn có tên là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Hồ Quang..) được xem là linh hồn của phong trào cộng sản Việt Nam và đảng cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD), có công đưa chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam. HCM với tên Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập cộng sản thời gian tại Pháp năm 1921 (King. C. Chen 20-21). Trong những năm 1923-25, Hồ Chí Minh được đào tạo ở Liên Xô để trở thành điệp viên Cộng sản Quốc tế nhà nghề (Comitern). Năm 1924, HCM được lệnh sang hoạt động bí mật tại Trung Hoa dưới quyền của Boridin, một cán bộ Nga Sô bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên nhằm bành trướng chủ nghĩa cộng sản đến các nước Á Châu và Đông Nam Á.

Tháng 2 năm 1930, Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này Quốc Tế Cộng Sản bắt đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) tại Hồng Kông. Ông ta bị mật thám Anh bắt giam (1931) tại Hong Kong khi họ lục soát trụ sở Đông Phương Bộ Quốc Tế CS với tên giả là Tống Văn Sơ (Song Man Cho) sau đó được thả một cách bí mật. Năm 1933, Quốc Tế Cộng Sản khai tử ông bằng cách tung tin Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù vì bệnh lao, bí mật đưa ông ta về Mát cơva, được huấn luyện và bị cô lập cho đến năm 1938 (Chính đạo: Cđ 134). Trong thời gian này tại Việt Nam, ĐCSĐD do Hà Huy Tập làm Tổng Bí Thư, phát triển và sinh hoạt dưới nhiều hình thức hợp pháp, hoặc bất hợp pháp được Liên Bang Sô Viết hỗ trợ mạnh mẽ. (CĐ 168-171).  

Tại tại Nam Kinh, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (tức Việt Minh sau này) được thành lập vào tháng 8/1934 (có nơi ghi là 1936) do ông Hồ Học Lãm, một sĩ quan người Việt trong quân đội Trung Hoa Quốc Gia, vận động Tưởng Giới Thạch giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Ông đã cùng ông Nguyễn Hải Thần hợp tác với Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập tổ chức này (VNĐLĐMH) gồm có Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Hữu Công, Hoàng Văn Hoan, Đặng Nguyên Hùng… Ông Lãm đã dùng bí danh Hồ Chí Minh để hoạt động (sđd). Tổ chức này gần như tan rã vào khoảng 1936 do bất đồng quan điểm. Theo Hoàng Văn Đào, một số đảng viên VNĐLĐMH muốn chính phủ THQG tiêu trừ cái tên VNQDĐ và muốn biến VNĐLĐMH trở thành cộng sản.

(Xin lưu ý: danh xưng Việt Minh và cái tên Hồ Chí Minh đã xuất hiện vào thời gian này, về sau Nguyễn Ái Quốc tái dùng vào năm 1941).

Phát xít Đức phát triển mạnh ở Âu Châu có khuynh hướng chống chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Ở Á Châu chiến tranh Trung-Nhật xảy ra, buộc Stalin phải thay đổi chiến thuật, “giảm xuất cảng cách mạng vô sản, bớt chống thực dân, liên kết với các thành phần không CS thành lập mặt trân thống nhất chống phát xít”, chủ trương hợp tác với chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng…

ĐẠI CHIẾN THỨ HAI TẠI ÂU CHÂU

Tháng 9-1939, Đại Chiến thế giới thứ II bùng nổ tại Âu Châu do phát xít Đức và Ý. Nhật gây chiến tại Á Châu. Chiến tranh ngày càng khốc liệt với sự thắng thế của Đức. Ngày 14 tháng 6, 1940, Paris thất thủ, Pháp thua trận phải thành lập chính phủ Vichy thân Đức. Tướng De Gaulle chạy sang Anh thành lập lực lượng Pháp Tự Do chống Đức.

Đông Dương, tướng Decoux được cử giữ toàn quyền đương đầu với Nhật. Ngày 22 tháng 9, 1940 Pháp phải ký hiệp ước chấp nhận Nhật sử dụng các hải cảng, phi trường, được đi lại khắp Đông Dương, ngăn chận đường tiếp vận cho chính phủ Tưởng Giới Thạch đang chống Nhật. Đổi lại, Nhật tôn trọng quyền cai trị của  Pháp tại Đông Dương. Ngày 23 tháng 11, 1940 Xứ ủy Nam Kỳ Đảng CSĐD tổ chức tổng khởi nghĩa nhưng thất bại bị Pháp đàn áp dã man.

Hiến chương Đại Tây Dương ký ngày 14 tháng 8, 1941 giữa Anh và Mỹ chủ trương trao quyền độc lập và tự quyết cho các dân tộc bị trị; cỗ vũ hòa bình, hợp tác quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng. Hội nghị Mốt Cô Va ngày 29/9/1941, Liên Xô, Anh Quốc và Hoa Kỳ liên kết cung cấp vật liệu chiến tranh chống Đức Quốc Xã cho Liên Xô.

Ngày 7/12/1941, Nhật tấn công Trân Châu Cảng,buộc Hoa Kỳ nhảy vào vòng chiến. Ngày 11/12/1941, Đức, Nhật, Ý ký hiệp ước Berlin chống  Anh và Mỹ. Nhật tấn công Hong kong, chiếm Mã Lai, Miến Điện, Indonesia và các đảo Thái Bình Dương.

Hội nghị tại Washington DC ngày 1/1/1942 thành lập Mặt Trận Đồng Minh chống Phát Xít. Liên quân Anh Mỹ đổ bộ Bắc Phi ngày 8/11/1942. Stalin giải tán Quốc Tế Đệ Tam (CĐ 293) ngày 15/5/1943 nhằm dễ dàng thành hình các liên minh chống Phát Xít.

Tuyên ngôn Cairo ngày 26/11/1943 giữa Anh, Mỹ, Trung Hoa (QDĐ) kêu gọi Nhật đầu hàng vô điều kiện, trả độc lập cho các nước Á Châu như Trung Hoa, Triều Tiên, Đài Loan, đảo Bành Hồ..

Hội nghị Teheran (từ 28/11 đến 1/12/1943) giữa Mỹ, Liên Xô và Anh Quốc dự định mở ra mặt trận thứ hai vào năm 1944, thảo luận việc LX chống Nhật (LX đã ký hiệp ước bất tương xâm với Nhật trước đây), bàn về hậu chiến của nước Đức, Âu Châu, bảo vệ hòa bình, hợp tác quốc tế, ngăn chận nguy cơ chiến tranh..

HCM TẠI BIÊN GIỚI HOA NAM VÀ VIỆT  NAM

Trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ II, đầu năm 1940 HCM về hoạt động tại Hoa Nam dưới bí danh Thiếu Tá Hồ Quang bên cạnh Bát Lộ Quân cộng sản Trung Hoa, liên lạc với các đảng viên ĐCSĐD tại Côn Minh và Vân Nam. HCM kêu gọi thành lập Mặt Trận Thống Nhất Hoa-Việt chống Nhật; phát triển ĐCSĐD đánh du kích; xử dụng khẩu hiệu chống đế quốc Pháp, chống phong kiến; liên kết các đảng phái thống nhất giành độc lập. Tại Việt Nam, Pháp tiếp tục đàn áp ĐCSĐD khốc liệt. (sđd 187).

Tháng 2, 1941, HCM trở về Việt Nam hoạt động tại hang Pác-Bó. Tháng 5, 1941: Hồ Tổ chức Hội Nghị 8 đảng cộng sản Đông Dương, tham dự từ Trung Hoa có: HCM, Phùng Chí Kiên, Vũ Anh. Tại địa phương có Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Hạ Bá Cang, Chu Văn Tấn và một số đảng viên từ miền Nam. Tóm tắt nội dung: Trường Chinh giữ Tổng Bí Thư đảng CS Đông Dương; Hợp thức hóa tổ chức Việt Minh (tức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đã được thành lập năm 1936 trước kia do Hồ Học Lãm – Xem ở trên); đưa ra 10 chính sách của Việt Minh: chống Pháp, chống Nhật, che giấu nguồn gốc cộng sản, chiến tranh du kích ở Bắc sơn – Vũ Nhai, Cao Bằng…

Trong lúc tại Hoa Nam, vào ngày 10/8/1942, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc muốn giúp những nhà cách mạng Việt Nam lưu vong thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội không cộng sản (CĐ 289) (gọi tắt là “Việt Cách”, hoặc “Đồng Minh Hội”) gồm các Ông Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh, một số đảng viên VNQDĐ và nhiều Việt Kiều ở Liễu Châu, bầu ra 19 ủy viên, đặt tổ chức dưới quyền của tướng Trương Phát Khuê, ra mắt ngày 1 tháng 10, 1942 tại Liễu Châu, mục tiêu đoàn kết các lực lượng cách mạng không cộng sản, đồng minh với Trung Hoa và các nước dân chủ để chống Pháp và chống Nhật, giành độc lập và tự do. Tuy nhiên tổ chức này bị nhóm cộng sản liên tục phá hoại, vu khống, họ tuyên bố chỉ có đảng CSĐD và Việt Minh mới giành được độc lập thật sự.

Hồ Chí Minh trở lại Hoa Nam và bị bắt lần thứ 2. 

Tháng 8/1942 từ Việt Nam, HCM vượt biên giới Hoa Việt nhằm cầu viện với Tưởng Giới Thạch nhưng bị bắt vì bị nghi là cộng sản (Nguyễn Ái Quốc), giam ở Tịnh Châu. Ngày 10/9/1943, do nhu cầu thành lập đồng minh chống Pháp và Nhật, HCM được chính phủ Tưởng Giới Thạch trả tự do (qua tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh đệ tứ quân khu của TH Quốc Dân Đảng ở Quảng Tây), được phép hoạt động với Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội cùng các nhà cách mạng quốc gia. Lúc đó, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là một thành viên của Đồng Minh chống phát xít Đức và Nhật gồm có Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Hoa.  

Cải tổ Việt Cách.  Đại hội cải tổ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) được tổ chức tại Liễu Châu ngày 28/3/1944 do tướng Trương Phát Khuê triệu tập, nhằm thống nhất các tổ chức Việt Nam đủ khuynh hướng chính trị tại Trung Hoa (CĐ 300). HCM được phép tham dự với tư cách đại diện tổ chức Phản Xâm Lược. Ban Chấp Hành Đồng Minh Hội được bầu gồm 7 ủy viên: Trương Bội Công (không đảng phái), Nghiêm Kế Tổ (VNQDĐ), Trương Trung Phụng (VNQDĐ), Trần Báo (VNQDĐ), Bồ Xuân Luật (Phục Quốc), Lê Tùng Sơn (Giải Phóng, cộng sản), Trần Đình Xuyên (Phục Quốc). HCM được bầu làm Ủy Viên dự khuyết. Việc kết hợp này đã gây chia rẽ trầm trọng giữa các thành phần cộng sản và không cộng sản.

Ngày 2/7/1944, Đại Hội thành lập Đồng Minh Hội tại Côn Minh với kết quả các thành phần cốt cán đều do cộng sản nắm đa số. HCM đã tỏ ra khôn khéo, chiều chuộng các viên chức Trung Hoa Quốc Dân Đảng, tỏ ra say mê chủ nghĩa Tam Dân mà ông đã dịch sang tiếng Việt, nên được chính phủ Trung Hoa tin dùng và được cử về nước với tư cách đại diện cho Việt Cách (Đồng Minh Hội), được sự hỗ trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng và đồng minh. (CĐ 304, 305). Trương Phát Khuê cấp phát tiền bạc, tài liệu tuyên truyền, thuốc men, bản đồ quân sự và các chứng minh thư cần thiết để HCM đi lại, cùng về có 18 cán bộ người Việt đã được đào tạo tại trường quân sự Đại Kiều, trong đó có cô Đỗ Thị Lạc.

Tại Âu Châu, Liên quân đồng minh đổ bộ lên Normandie, Pháp ngày 6/6/1944, phản công đẩy lùi quân Đức trên các mặt trận. Liên Xô cũng phản công ở Đông Âu, nhưng đi đến đâu thành lập chế độ cộng sản đến đó.

Ngày 20/9/1944, HCM trở về nội địa, thành lập “đội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân” gồm 34 người do Hoàng Sâm chỉ huy. Tại Trung Hoa, đảng Cộng sản Trung quốc tổ chức đại hội lần thứ VII ở Diên An, Mao Trạch Đông được bầu làm chủ tịch.

Như vậy, HCM và tổ chức Việt Minh đã được chính phủ Trung Hoa Quốc Gia yểm trợ để chống quân Nhật, trong khi tổ chức cộng sản Trung Cộng còn rất yếu ớt.

NHỮNG NĂM CUỐI CÙNG CỦA ĐẠI CHIẾN THẾ GIỚI THỨ HAI

Năm 1944, thế chiến thứ 2 đã bắt đầu ngã ngũ, Hoa Kỳ chính thức tham gia với đồng minh sau khi bị Nhật tấn công vào Trân Châu Cảng. Đồng minh chiến thắng ở khắp nơi. Ngày 24/11/1944, Hoa Kỳ bắt đầu ném bom Nhật ở Á Châu, Liên Xô kết hợp với đồng minh để chống Đức. Trước đó, Liên Xô đã ký hiệp ước bất tương xâm với Nhật ngày 13/4/1941.

Ngày 9 tháng 3, 1945 Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương chấm dứt nền đô hộ của Pháp tại Việt Nam kể từ 1884. Trước tình hình biến chuyển, các lực lượng quốc gia cũng như cộng sản nằm vùng bắt đầu nổi lên khắp nơi, nhưng Việt Minh có tổ chức tại nhiều nơi, ra sức tuyên truyền, loại bỏ các thành phần được cho là phản động…, tức không cộng sản.

Thành lập Đế Quốc Việt Nam: ngày 11 tháng 3, 1945 sau khi Nhật trả độc lập cho Việt Nam, Hoàng đế Bảo Đại ra tuyên bố xóa bỏ hiệp ước 1884 với Pháp và chủ trương “Dân Vi Quý”, Việt Nam được độc lập từ đây mặc dù còn nhiều khó khăn với Nhật.

Ngày 17 tháng 4, 1945, được Vua Bảo Đại mời, học giả kiêm nhà giáo Trần Trọng Kim (người không đảng phái) thành lập chính phủ với các bộ trưởng có tài có đức. Ông chủ trương không chịu lệ thuộc dưới quyền người Nhật, và cuối cùng đã lấy lại quyền cai trị tất cả 3 miền trước khi chính phủ ông từ chức do áp lực của Việt Minh.

Tại Âu Châu, ngày 2 tháng 5, 1945, Bá Linh được giải phóng. Ngày 9 tháng 5, 1945, Phát Xít Đức đầu hàng, một biến chuyển cực kỳ to lớn cho tình thế trên thế giới.

Ngày 26/6/1945, Liên Hiệp Quốc được thành lập tại San Francisco.

Ngày 17/7/1945, Hội Nghị Postdam giữa Anh, Mỹ và Liên xô bàn về hậu chiến nước Đức và buộc Nhật đầu hàng vô điều kiện. Trước đó một ngày (16/7/1945), Mỹ đã thử thành công bom nguyên tử.

VIỆT NAM: THÀNH HÌNH ĐẾ QUỐC VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM

Sau khi lật đổ thực dân Pháp, Nhật cho phép Việt Nam được độc lập, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thành lập Đế Quốc Việt Nam theo nguyên tắc “Dân Vi Quý”, chiêu tập nhân tài để chính đốn nền tảng quốc gia, ban hành phương pháp chính trị hợp với nguyện vọng của quốc dân. Đây là một chính phủ dân chủ đầu tiên của Việt Nam trong tình thế rất khó khăn.

Được thành hình đột ngột do sự biến chuyển của tình hình, chính phủ Trần Trọng Kim gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn nhưng đã đạt nhiều thành quả về chính trị, giáo dục, cứu tế, xã hội trong nước, tóm lược như sau (theo Chính Đạo 321-341):

Ông Trần Trọng Kim tốt nghiệp Sư Phạm tại Pháp, giữ thanh tra tiểu học ở Bắc phần, là một học giả có căn bản học vấn “Đông Tây”, soạn bộ Việt Nam Sử Lược vẫn còn giá trị tới ngày nay, bộ sách Nho Giáo…  Ông là người yêu nước, thành thật, ước vọng độc lập dân tộc bị chính quyền Decoux định bắt vì nghi ngờ chống Pháp, ông phải đi di tản nhiều nơi.

Trong buổi giao thời khó khăn giữa hai gọng kềm thực dân Pháp và phát xít Nhật, xã hội loạn lạc, nông thôn hỗn loạn, Ông vẫn quy tụ được những người tài giỏi, trẻ tuổi, có đức hạnh, nhiệt huyết.

Thành phần chính phủ:

  • Bộ ngoại giao và Phó thủ tướng: Ls Trần Văn Chương, 42 tuổi.
  • Bộ nội vụ: Ông Trần Đình Nam, Y sĩ Đông Dương, người của cụ Huỳnh Thúc Kháng
  • Bộ kinh tế: Ông Hồ Tá Khanh, Y sĩ ĐD, chủ nhân hang nước mắm Liên Thành, Phan Thiết
  • Bộ giáo dục: Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn, một giáo sư trẻ,
  • Bộ tiếp tế: Ông Nguyễn Văn Thí, Y sĩ Đông Dương, chủ nhân hang xuất nhập cảng tại Đà Nẵng
  • Bộ Tư Pháp: Ls Trịnh Đình Thảo, sáng lâp viên Đảng Dân Chủ ở Sài gòn (1937)
  • Bộ tài chánh: Ls Vũ Văn Hiền
  • Bộ Y tế: Bs Vũ Ngọc Ánh, giáo dân.
  • Bộ thanh niên và thể thao: Ls Phan Anh

Những công việc đã thực hiện trong thời gian 4 tháng tồn tại:

Đối đầu với nạn đói khủng khiếp ngoài Bắc và Trung kỳ. Chính quyền thực dân Decoux vơ vét thực phẩm để phục vụ chiến tranh cho Nhật và chính phủ thân Đức ở bên nhà (CĐ 328-329). Chính phủ Trần Trọng Kim ra sức cứu đói trong những điều kiện khó khăn trong lúc Việt Minh lợi dụng tuyên truyền và tấn công các chủ điền, vu cáo phong trào cứu đói của chính phủ.

Lấy lại tên nước là Việt Nam, biểu hiệu cho sự thống nhất lãnh thổ và độc lập từ Nam tới Bắc. Lúc đó, Việt Nam là một từ quốc cấm vì Pháp đã chia thành 3 miền Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Thống nhất đã làm cho toàn dân lên cơn sốt độc lập, khắp nơi đổi tên đường, phá bỏ các di tích thực dân trên các công viên.

Việt Nam hóa chương trình giáo dục và thi cử. Mặc dù chỉ tồn tại trong 4 tháng, nhưng việc làm này đã tạo nên viễn tượng tốt cho giáo dục Việt Nam sau này.

– Giành lại quyền thống nhất lãnh thổ ngày 26/7/1945, mặc dù không có quân đội, an ninh, ông chỉ dùng tài thuyết phục dựa trên tình hình thế giới, sự suy sụp của Nhật sắp sửa bại trận.

– Ông đã Việt Nam hóa cơ cấu chính trị, văn hóa, xã hội và việc thương thuyết đòi thống nhất lãnh thổ bị nhiều người lãng quên, nhất là Việt Minh và chính quyền cộng sản sau này (CĐ 335).

– Chính phủ TT Kim chủ trương thật long đoàn kết dân tộc, các tổ chức, đảng phái để xóa đi dấu vết chia rẽ do chính sách chia để trị trên nửa thế kỷ đô hộ.

Những khó khăn và nhược điểm của chính phủ Trần Trọng Kim

– Những nhược điểm đến từ tình thế thay đổi đột ngột và thời gian cấp bách trước sự thua trận của Pháp và Nhật.

– Hầu hết các bộ trưởng đều còn trẻ (ngoại trừ ông TTK 62 tuổi), họ rất thông minh, yêu nước, nhiệt tình nhưng còn thiếu kinh nghiệm hành chánh và đấu tranh chính trị (theo những nhà quan sát lịch sử).

– Không có bộ quốc phòng, an ninh hiện vẫn còn nằm trong tay Pháp và Nhật, vì thế không thể dẹp loạn được.

– Chưa nắm được lực lượng quần chúng, hiện chỉ dựa vào bộ máy chiến tranh của Nhật để tồn tại.

– Guồng máy công chức chính phủ dưới chế độ thực dân mà ông chủ trương “cách mạng hóa công chức” chưa có thời giờ thực hiện.

– Đồng minh lúc đó chỉ biết có Việt Minh và lực lượng từ Trung Hoa kéo về theo kế hoạch “Hoa Quân Nhập Việt” của THQDĐ.

– Việt Minh ra sức tuyên truyền chính phủ Trần Trọng Kim là “bù nhìn” của Nhật. Họ tự xưng được đồng minh và Liên Hiệp Quốc nhìn nhận để chống Nhật qua những thủ thuật tuyên truyền, khiến cho nhiều người chạy theo họ.

– Việt Minh là tổ chức bình phong của đảng CSĐD, che giấu chủ trương cộng sản của họ và có cơ sở ở nhiều nơi. VM còn ra sức đe dọa những thành phần không theo, có nơi còn bị thủ tiêu, nhất là ở nông thôn. Phạm Quỳnh bị thủ tiêu ở Huế, các đảng viên quốc gia như VNQDĐ, Đại Việt, Duy Dân, Việt Cách, Phục Quốc, Trot kist, Cao Đài, Hòa Hảo, Công Giáo, Phật giáo… (Xem Ngô Văn)

– Thành phần người Pháp thuộc phe DeGaule “tự do” tìm mọi cách trở lại Đông Dương, chia rẽ các thành phần người Việt  chống Pháp, xuyên tạc vua Bảo Đại và chính phủ TTK. HCM đã liên lạc với lực lượng này và hứa để người Pháp trở lại để được độc lập từ 5 đến 10 năm và còn đề nghị Pháp cho Việt Nam tự trị trong liên bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp (CĐ 364).

– Các lực lượng thân Nhật tìm cách phản bác và lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim và vua Bảo Đại để thay thế bằng những người thân Nhật.

Ngày 15 tháng 8, 1945, Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng sau khi Mỹ ném hai trái bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki.

Lúc này, hai đế quốc Pháp và Nhật hoàn toàn bị loại khỏi chính trường Việt Nam được Đồng Minh bảo trợ và xác nhận.

HCM cướp chính chính quyền từ vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim.

HỒ CHÍ MINH GẶP OSS, ĐƯỢC ĐỒNG MINH HỖ TRỢ

Trong các tổ chức đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam, Việt Minh đươc xem là có thực lực nhất ở trong nước (vùng Cao Bằng, Trung và Nam Việt Nam), được huấn luyện chu đáo và yểm trợ bởi ĐCSĐD (đảng cộng sản Đông Dương), Trung Hoa Quốc Dân Đảng, OSS (cơ quan tình báo Hoa Kỳ)… Việt Minh (VM) là tổ chức bình phong của Đảng Cộng Sản Đông Dương, có đảng viên ở cả 3 miền Nam Trung Bắc. Ngoài ra, Việt Minh may mắn còn có sự liên hệ với Mỹ và Liên Xô (Đồng Minh chống phát xít lúc đó).

Tháng 11, 1944, trung úy phi công Mỹ William Shaw bị rơi tại Cao Bằng, được VM giải cứu. Chính HCM đã tháp tùng đem viên phi công sang Quảng Châu trao cho tư lệnh không đoàn 14 ở Côn minh. Hoa kỳ rất e dè khi liên lạc với người Việt tại Việt Nam, nhất là HCM vì họ biết ông là cán bộ cộng sản quốc tế qua cái tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Mỹ cần đánh Nhật ở Đông Dương nên thay đổi thái độ và ủng hộ những nhà tranh đấu Việt Nam qua HCM.

Ngày 17/3/1945, Mỹ cho trung úy tình báo Charles Fenn gặp HCM tại Côn Minh để thảo luận việc hợp tác. HCM đồng ý sẽ cung cấp tin tức tình báo về Nhật cho Mỹ, ngược lại Mỹ giúp thuốc men và trang cụ. HCM mang bí danh do OSS cấp là “Lucius” với bí số 19 (CĐ 355). HCM sau đó đã vận động được gặp tướng không quân Claire Chennault ngày 29/3/1945 chỉ để xin chụp hình chung với chữ ký dùng để tuyên truyền, và được tặng 6 súng colt 45. Sau đó HCM cùng 2 nhân viên OSS phụ trách có máy vô tuyến về chiến khu Cao Bằng. Qua các OSS này, HCM biết được nhiều tin tức rất sớm trên thế giới.

HCM tiếp tục làm thân với người Mỹ. Chỉ huy trưởng OSS đặc trách Đông Dương là đại úy Patti đồng ý hợp tác với Việt Minh mặc dù biết HCM là cán bộ quốc tế cộng sản. Ông Hồ nói chối là ông bị mật thám Pháp vu cáo. Hơn nữa, lúc này Stalin đã tuyên bổ giải tán QTCS nên Patti vẫn tiếp tục hợp tác để chống Nhật. Tháng 6, 1945, Patti cử toán Deer Hunter do Allision Thomas chỉ huy vào hoạt động trong mật khu của VM, lập một phi trường dã chiến để nhận tiếp tế, đồng thời huấn luyện cho 100 cán bộ VM. (CĐ 359)

Ngày 15/8/1945, được tin Nhật đầu hàng quá bất ngờ qua toán tình báo OSS, Việt Minh vội vã di chuyển để chuẩn bị cướp chính quyền tại Hà Nội và Huế. Viên tình báo Thomas kín đáo theo phái đoàn Việt Minh về Hà Nội.

Nói tóm lại, nhân dịp đồng minh cần sự hợp tác để chống phát xít Đức và Nhật, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc do Trung Hoa Quốc Dân Đảng lãnh đạo đã thành lập và hỗ trợ những nhà cách mạng Việt Nam qua tổ chức Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách hay Đồng Minh Hội), họ đã thả Hồ Chí Minh mặc dù biết ông ta là cộng sản (một nghịch lý lịch sử.) Nhờ có sẵn một số sơ sở ở Việt Nam, đồng minh thuận để HCM đại diện cho tổ chức “Việt Cách” về Việt Nam tổ chức kháng chiến chống Nhật. Lợi dụng thời cơ, HCM bỏ tên Việt Cách mà chỉ dùng cái tên Việt Minh, là tổ chức đã có từ trước nhưng có nguồn gốc cộng sản.

CƯỚP CHÍNH QUYỀN

Như trên đã nói, vào tháng 5, 1945, HCM về nước, lập căn cứ tại Tân Trào, nằm giữa Tuyên Quang và Thái Nguyên.

Hai trái bom nguyên tử được lần lượt thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào  ngày 6 và 9 tháng 8, 1945 khiến Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Ngày 10/8/1945, Nhật hoàng ra lệnh ngưng chiến, ngày 15/8/1945, chính thức đầu hàng. Những tin tức này được nhân viên OSS thông báo cho HCM biết rất sớm.

Trước tin bất ngờ đó, VM vội tóm lấy thời cơ và hành động.

Ngày 13/8, Võ Nguyên Giáp “ra lệnh khởi nghĩa.” Ngày 14/8, đảng CSĐD tổ chức hội nghị toàn quốc. Ngày 15/8/45, thành lập ủy ban khởi nghĩa, ngày 16/8 biến hội nghị thành đại hội quốc dân, thành lập chính phủ lâm thời, HCM làm chủ tịch, các chức vụ khác đều do đảng viên đảng CSĐD nắm giữ. Cờ đỏ sao vàng là cờ chính phủ với bài Tiến Quân Ca là quốc ca. Rõ ràng trong thời gian chưa đầy 1 tuần lễ mà VM miễn cưỡng tổ chức nhiều sự kiện đáng lẽ phải mất  nhiều tháng. Để làm gì? Để cướp thời cơ.

Ngày 16/8, Thành Ủy cộng sản Hà Nội họp khẩn cấp để lập kế hoạch cướp chính quyền vì nghe tin ngày hôm sau có cuộc biểu tình của tổng hội công chức Hà Nội ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Cộng sản đã biến cuộc biểu tình này thành cuộc biểu tình ủng hộ Việt Minh. Đây là một hình thức “cướp” hay “giành” chính quyền của cộng sản Việt Minh, một thủ thuật họ thường dùng. Trong các tuyên cáo, VM tuyên bố chuẩn bị sẽ cướp chính quyền, sau đổi thành “giành chính quyền” vì từ ngữ “cướp” không được đẹp.

Việt Minh cũng vận động đồng bào ở ngoại ô Hà nội tham dự biểu tình ngày chủ nhật 19/8/1945 để ra mắt tổ chức Việt Minh Cứu Quốc, rồi kéo đến “tiếp thu” phủ Khâm Sai (mấy ngày trước cộng sản đã buộc khâm sai Phan Kế Toại phải từ chức) và cướp doanh trại Bảo an.

Qua các sự kiện nêu trên đã bạch hóa và được nhiều sách vở, các học giả ghi lại, rõ ràng ngày 19/8/1945 là ngày VM “cướp chính quyền” từ chính phủ hợp pháp Trần Trọng Kim (mà cộng sản gán gọi cho là bù nhìn của Nhật). Họ cho là cuộc “CÁCH MẠNG” thành công. ĐÚNG, đó là cuộc CÁCH MẠNG thành công CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA, nhằm đưa Việt Nam đến một nước cộng sản, độc tài toàn trị như ngày hôm nay.

Trong lúc đó, tại Huế, hoàng đế Bảo Đại bị ép buộc phải thoái vị ngày 23/8. Cùng ngày, cộng sản ép khâm sai Nam Việt là Nguyễn Văn Sâm phải từ chức.

Ngày 25/8, Hồ Chí Minh mới về đến Hà Hội. Ngày 2 tháng 9, Ông Hồ đọc tuyên bố độc lập, thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với những ước vọng độc lập, tự do, hạnh phúc, mọi người sinh ra đều bình đẳng như hiến pháp Hoa Kỳ. Bài diễn văn lấy ra từ bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Trong ngày này (2 tháng 9), Hồ Chí Minh đã dõng dạc tuyên bố như vậy. Nếu những lời tuyên bố đó được thực hiện, thì Việt Nam đã thành công trong cuộc một cách mạng dân tộc, dân chủ, tạo hạnh phúc cho dân cho nước. Nếu được như vậy, ngày 19/8 đáng được gọi là Cách Mạng.

Nhưng không, mọi chuyện đã đi ngược lại, vì thế người ta chỉ có thể gọi đó là ngày “cướp chính quyền” hay “cướp quyền” không hơn không kém từ một chính phủ Việt Nam đã có sẵn.

VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI

Thế chiến thứ hai chấm dứt, các nước đồng minh tuyên bố chủ trương chấm dứt chiến tranh, kiến tạo hòa bình, xây dựng kinh tế và giải trừ thực dân. Rất nhiều quốc gia đã được độc lập sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt mà không phải gây ra chiến tranh, đặc biệt là “chiến tranh cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Chúng ta xem lại một số quốc gia này:

– Việt Nam được độc lập ngày 11/3/1945 sau khi Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập ngày 17/4/1945 đã đạt nhiều thành quả to lớn. Nhưng VM sau đó cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim, để Pháp trở lại Đông Dương, chiến tranh với Pháp lại xảy ra, và năm 1954, đất nước bị chia đôi thành hai miền. Năm 1975 thống nhất hai miền bằng võ lực bởi đảng cộng sản, và hiện nay Việt Nam vẫn ở dưới một thể chế độc tài toàn trị.

– Campuchia (Cam bốt) tuyên bố độc lập ngày 12/3/1945, độc lập 1953.

– Lào tuyên bố độc lập ngày 15/4/1945, độc lập 1953.

– Indonesia độc lập năm 1945.

– Phi luật Tân (Philippine) 1946

Các quốc gia được độc lập từ Anh Quốc: Miến Điện 1948; Do Thái (Israel) được thành hình 1948; Singapore 1965, Malysia 1957..

Các nước được độc lập từ Nhật: Đài Loan, Nam Hàn, Bắc Hàn, Mãn Châu..

NHỮNG ĐIỂM ĐÁNG CHÚ Ý TRONG CÁC PHONG TRÀO GIÀNH ĐỘC LẬP

Lịch sử đã chứng minh: Liên Xô (và sau này có thêm Trung Cộng) không bao giờ chấp nhận để cho một nước độc lập theo thể chế dân chủ, mà buộc họ phải theo chủ nghĩa cộng sản.

– Chủ nghĩa cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và độc tài toàn trị, không chấp nhận đối lập, hoặc đa đảng. Cộng sản quyết loại trừ hoặc thủ tiêu đối lập.

– Hồ Chí Minh là người lãnh đạo đảng CS Đông Dương với Việt Minh là tổ chức ngoại vi, vì thế VM phải theo con đường xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Trung Cộng.

– Tùy theo tình thế, khi cần, Việt Minh có thể liên hiệp với các tổ chức khác nhưng chỉ tạm thời và giai đoạn, cuối cùng VM đều loại bỏ các thành phần khác, còn lại chỉ là độc đảng cai trị bởi đảng cộng sản (lịch sử đã chứng minh rõ ràng).

– Vì thế, Việt Minh đã:

  • Không chấp nhận chính phủ Trần Trọng Kim, không muốn hợp tác với chính phủ này.
    • Cướp chính quyền hợp pháp của Trần Trọng Kim vào ngày 19/8/1945.
    • Loại bỏ, thủ tiêu, sát hại tất cả những lực lượng không cộng sản không theo họ.
    • Thực hiện kế hoạch cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam để cuối cùng toàn dân tộc nằm dưới ách cai trị cộng sản.

Một điểm đáng lưu ý là nếu Trung Cộng không đánh bại Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Hoa Lục, thì đảng CSĐD và Việt Minh không thể phát triển và thành công áp đặt chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.

NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC TÍNH CỦA TỔ CHỨC VIỆT MINH

Tổ chức Việt Minh (tức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) được ông Hồ Học Lãm (từ Việt Nam xuất ngoại theo phong trào Đông Du, học khóa sĩ quan Bảo Định, phục vụ trong quân đội Trung Hoa Quốc Gia) đã cùng ông Nguyễn Hải Thần hợp tác với Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Hoa Nam khởi xướng thành lập vào khoảng 1934, được Trung Hoa Quốc Dân Đảng bảo trợ do nhu cầu đoàn kết các tổ chức quốc gia lưu vong tại Trung Hoa để chống xâm lược Nhật. Cuối năm 1935, tổ chức này gần như không còn hoạt động. Năm 1941, ông Hồ Chí Minh tái sử dụng tên Việt Minh này vào tháng 5, năm 1941 (xem ở trên) và chính thức trở thành công cụ của đảng cộng sản Đông Dương.

Vào năm 1944, Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp những người cách mạng quốc gia Việt Nam (không cộng sản) thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (tức Việt Cách),

Ngày 20/9/1944, HCM đại diện Việt Cách (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội) về nước để hoạt động chống Nhật với sự yểm trợ của đồng minh. Tuy nhiên, HCM lại không dùng danh xưng Việt Cách, mà chỉ sử dụng danh xưng Việt Minh cho đến sau này. Việt Minh được Trung Hoa Quốc Dân Đảng hỗ trợ rất nhiều, đặc biệt là Hoa Kỳ, nhất là phương tiện xuyên qua biên giới dễ dàng, nếu không sẽ khó có thể hoạt động tại biên giới và nội địa Hoa Nam.

Việt Minh sau này trở thành tổ chức cộng sản trá hình, do đảng CS Đông Dương kiểm soát (sau được Liên Xô hỗ trợ và sau này là Trung Cộng). Việt Minh (cộng sản) có những âm mưu, thủ đoạn, dối trá, độc quyền. Việt Minh được huấn luyện kỹ càng về chiến thuật du kích, tuyên truyền, thủ tiêu ám sát đối lập… Việt Minh đã từ chối hợp tác với các tổ chức quốc gia tại miền Nam như Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, cực lực chống đối các thành phần mà họ gọi là “tros Kit” tức đệ Tứ Quốc Tế như Nguyễn An Ninh,

  • VM đã tuyên truyền, chống phá, bôi xấu chính phủ TTK, cho rằng đó là chính phủ “bù nhìn”, “tay sai của Nhật”. Thật ra cho đến khi Nhật chính thức đầu hàng, Nhật đã đồng ý trao trả quyền cai trị cả 3 miền cho chính phủ Trần Trọng Kim. Nước Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất kể từ đó.
  • VM chống phá vua Bảo Đại, tuyên truyền phỉ bang nhà vua. Vua Bảo Đại đã chứng tỏ được sự khôn ngoan để lui bước nếu cần thiết. Ông đã chủ trương “Dân Vi Quý” khi được độc lập từ tay Nhật ngày 11/3/1945.
  • Trung Hoa Dân Quốc đã giải tán tổ chức Việt Minh năm 1937 (xem ở trên). Do nhu cầu chiến lược chống Nhật, đồng minh (do Mỹ dẫn đầu) đồng ý yểm trợ Hồ Chí Minh mặc dù biết ông là cán bộ cộng sản quốc tế.

NẾU: Việt Minh có tinh thần yêu nước, độc lập, đoàn kết thực sự, hợp tác với các thành phần không cộng sản, mà chỉ vì quyền lợi đất nước lên trên hết, không áp đặt chủ nghĩa cộng sản, hợp tác với chính phủ Trần Trọng Kim thì Việt Nam được độc lập từ tháng 3 năm 1945 mà không cần có chiến tranh vì những lý do sau đây:

  • Pháp đã thua tại Âu Châu, Nhật đã bại trận và đầu hàng vô điều kiện, vì thế không còn thế lực nào áp đặt đô  hộ Việt Nam
  • Đồng Minh đã kế hoạch giải giới quân Nhật: Quân đội Trung Hoa ở Bắc vĩ tuyến 16, quân đội Anh – Ấn ở phía nam.
  • Nếu không sợ VM theo cộng sản, thì đồng minh – nhất là Mỹ – sẽ không đồng ý để cho Pháp trở lại đô hộ Việt Nam. Chính vì sợ VM áp đặt chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, đồng minh mới buộc lòng để cho Pháp trở lại, và HCM không phải ký hiệp định sơ bộ cho phép Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân của THDQ.
  • Các tổng thống Mỹ đã không trả lời thư của HCM cũng vì lý do này.

CÁCH MẠNG THÁNG 8 THÀNH CÔNG HAY CƯỚP CHÍNH QUYỀN VÀ HẬU QUẢ

Hiện nay, các hồ sơ mật đã được GIẢI MÃ. Những nhân vật trực tiếp trong biến cố năm 1945 đã tường thuật đầy đủ, chính quyền tiếp nối hiện nay là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã chứng minh những sự thực hiển nhiên sau đây:

  1. Đại Chiến Thế Giới thứ hai đã tạo ra cơ hội ngàn năm một thuở cho nhiều quốc gia được độc lập mà không cần phải có chiến tranh đổ máu. Đồng minh đã chủ trương: tái lập hòa bình, giải trừ thực dân, ngăn cản chiến tranh và tái thiết. Các thế lực phát xít, đế quốc, thực dân đã bị suy tàn, đầu hàng và không còn sức mạnh. Chỉ còn lại chủ nghĩa cộng sản kéo dài gần 1 thế kỷ nay đang tàn lụi.
  2. Hồ Chí Minh là một cán bộ cộng sản quốc tế đệ tam, là người yêu nước nhưng buộc phải theo con đường của cộng sản là thực hiện chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, độc tài toàn trị, mưu mô xảo quyệt.
  3. HCM được Đồng Minh yểm trợ qua tổ chức Việt Cách (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội) nhằm chống phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nhưng ông ta đã biến sự trợ giúp này thành trợ giúp tổ chức Việt Minh, một tổ chức cộng sản, qua những thủ thuật tuyên truyền, xảo trá… HCM đã liên lạc với Pháp
  4. Việt Minh ban đầu là tổ chức của những người yêu nước vì độc lập cho dân tộc (1936) nhưng sau đó gần như được giải tán (1937). Năm 1941, HCM tái lập lại tổ chức này làm công cụ của đảng CS Đông Dương. Rất  nhiều cán bộ VM đều phát xuất từ trường do Trung Hoa Quốc Dân Đảng đào tạo.
  5. Với những kỹ thuật đấu tranh du kích được huấn luyện kỹ càng, phương thức phá  hoại, loại trừ đối phương, phương tiện do đồng minh hỗ trợ, Việt Minh đã áp lực buộc vua Bảo Đại và chính quyền Trần Trọng Kim – một chính quyền đạo đức, không mưu đồ gian trá, không muốn tranh chấp đổ máu – phải từ chức, Việt Minh đã dễ dàng đạt được mục tiêu mà không tốn một viên đạn hay một giọt máu.
  6. Hậu quả của “cách mạng tháng 8” cho thấy bản chất của cuộc chính biến này, và đất nước hiện nay đã chứng tỏ cho mọi hành động lịch sử không bao giờ có thể quên được.

TRẦN VŨ, tháng 8, 2021

(Bổ túc tháng 8 năm 2023, tháng 8, 2025)

Tài liệu tham khảo:

  • Việt Nam 1920-1945 (Cách mạng và phản cách mạng thời đô hộ thuộc địa): Ngô Văn, Chuông Rè, 2000.
  • Tài liệu về cuộc chiến 1946-1954 “Ghi chép thực về đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp” – Truyền thông số 32-33, 2009.
  • Công và Tội những sự thật lịch sử– Nguyễn Trân – Xuân Thu – 1992
  • Gọng Kìm Lịch Sử – Bùi Diễm – Cơ Sở Phạm Quang Khai – 2000
  • Một Cơn Gió Bụi (Hồi ký về một giai đoạn lịch sử đau thương): Trần Trọng Kim, NXB Sống, 2015
  • Bên Giòng Lịch Sử Việt Nam (1940-1975): LM Cao Văn Luận, Tantu Research, 1983
  • Hồ Chí Minh, Con Người và Huyền Thoại, Tập II 1925-1945: Chính Đạo (CĐ), Văn Hóa 1993
  • Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí, gần 900 tác nhân lịch sử cận đại: Chính Đạo, Văn Hóa 1993
  • Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế Quốc Việt Nam (9/3/1945-30/8/1945): GS Phạm Cao Dương, Truyền Thống Việt 2017
  • Thế giới Những sự kiện lịch sử thế kỷ XX (1901-1945): Nhà xuất bản Giáo Dục, 2003
  • Việt Nam thế kỷ 20 Biên niên sử: Dương Kiền, Tiếng Quê Hương, 2005
  • Đảng Cộng Sản  Việt Nam: Lịch sử và huyền thoại, tập I 1925-2005: Hà Nhân Văn, Tiếng Mẹ, 2007
  • Những Biến Cố Lớn Trong 30 năm chiến tranh Việt Nam – GS Nguyễn Đình Tuyến – 1995.
  • Hồi ký: Nguyễn Xuân Chữ – Nguyễn Hiến Lê – Nguyễn Tường Bách – Võ Nguyên Giáp (Điện  Biên Phủ) – Bảo Đại – Pierre Darcourt – Trần Đức Thảo (những lời trăng trối) – Bùi Tín – Trần Đĩnh …
  • Hồi Ký về Hồ Học Lãm: https://www.dkn.tv/van-hoa/chi-si-ho-hoc-lam-va-chuyen-chua-ke-ve-moi-giao-tinh-than-thiet-voi-tuong-gioi-thach-phan-boi-chau.html
  • Lịch sử Việt Nam Cận Đại (1927-1954), VNQDĐ, Hoàng Văn Đào.

NGOẠI NGỮ:

  • The Struggle for Indochina 1940-1955: Ellen J. Hammer, Standord University, 1954, 1955 (1966)
  • China & The Vietnam War 1950-1975 (Qiang Zhai) – The University of North Carolina Press – 2000
  • Vietnam and China, 1938-1945, King C. Chen, Princeton Legacy Library, 1969

Comments are closed.