’Bốn Mươi Năm Tội Ác Cộng Sản – Ở Trong Trái Tim Tôi Mỗi Người Việt Nam Chúng Tôi, Mỗi Ngày Là Ngày 30 Của Tháng Tư Đen’’.


Liên Hi Nhân Quyn Vit Nam  Thy Sĩ

‘’BỐN MƯƠI TÁM NĂM TỘI ÁC CỘNG SẢN – Ở  TRONG TRÁI TIM MỖI NGƯỜI VIỆT NAM CHÚNG TÔI, MỖI NGÀY LÀ NGÀY 30 CỦA THÁNG TƯ ĐEN’’.

Bốn mươi tám năm trước, ngày 17 tháng Tư năm 1975, Phnom Penh, thủ đô nước Cam Bốt rơi vào tay cộng sản Khmers đỏ. Pol Pot và nhiều tên cầm đầu bọn sát nhân tập thể này vốn là đồng chí, đàn em và học trò của Hồ Chí Minh từ năm 1953. Hai nước trung lập Lào và Cam Bốt bị cộng sản Bắc Việt cài người, lấn chiếm, biến đường mòn thành xa lộ. Giao nửa phần đất nước cho Bắc Kinh ‘’bảo hộ’’ và ‘’kinh doanh’’, các lãnh tụ Việt cộng đưa hết lính chính quy chủ lực vào Nam, đóng dọc theo bên kia biên giới Lào-Cam Bốt. Được Trung cộng đào tạo và võ trang, được Liên Sô cung cấp chiến xa và hỏa tiễn, được chỉ huy bởi đông đảo cố vấn Trung-Sô, lính đánh thuê Cuba, Đông Đức.

Đến ngày 30 Tháng Tư năm 1975, bộ đội cộng sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam Việt Nam tự do, chiến xa Nga sô viết tiến vào Sài Gòn. Báo cộng sản Pháp ngạc nhiên không thấy “nhân dân đồng khởi”. Và truy tìm không thấy một văn kiện nào của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chuyển nhượng hay bán đứng một phần đất nước cho Hoa Kỳ hoặc bất cứ một nhà nước nào khác. Cộng sản rao truyền rằng chúng lấy được miền Nam Việt Nam không có ‘’biển máu’’. Nhưng chúng tôi biết có nhiều con ‘’suối máu’’. Lịch sử mai sau, những nhân chứng và chứng tích, tuyên thệ trước đất trời, sẽ nói lên sự thật đầy đủ hơn. Người dân miền Nam bị lưu đày ngay trên quê hương, trong nhà tù lớn nhứt thế giới. Chỉ vì yêu nước nhưng không theo cộng sản, nhiều trí thức, triết gia, tu sĩ và người cầm bút, nhiều tài năng quốc gia bị cộng sản sát hại, thủ tiêu. Hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Bị công an bắt lại, câu lưu để tống tiền. Bị hải tặc cưỡng hiếp và tàn sát. Bị xua đuổi, chết đuối, chết đói khát, chết vì kiệt sức. Hơn nửa triệu người tị nạn bằng thuyền mất tích trên các biển phía Nam, biển Đông và Thái bình dương. Thay vì ‘’biển máu’’, Việt cộng đã tạo nên ‘’biển xác’’, xác người và xác thuyền..

Cần nhắc lại : Việt Nam bị chia cắt hồi tháng Bảy năm 1954. Lần đầu tiên trong lịch sử, gần một triệu đồng bào liều chết, bỏ Thăng Long Thành, bỏ đất Bắc sắp bị lính đánh thuê cho tập đoàn cộng sản quốc tế cưỡng chiếm. Đồng bào chen chúc trên bãi biển, bến cảng, tìm ghe thuyền, tàu bè cứu vớt chạy ra biển Đông để di cư vào miền Nam Quốc Gia. Còn ở lại đằng sau, dưới chế độ cộng sản Bắc Việt, hơn 200 ngàn đến gần nửa triệu người dân vô tội đã chết uất trên các đấu trường trong cái chiến dịch khủng bố có tên gọi là ‘’Cải Cách Ruộng Đất’’ (1953-1956).

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt (thơ Tố Hữu).

Dù tin tức bị phong tỏa, che giấu, chúng ta vẫn biết trung tuần tháng Mười Một năm 1956, nhiều sư đoàn bộ binh và công an đã đàn áp trong máu lửa cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Vì đối kháng chế độ cộng sản cai trị độc tài dã man, ít nhứt có gần một ngàn người dân bị giết và 6000 người bị bắt, bị tra khảo và đưa đi lưu đày. Đồng thời Cộng sản tiếp tục tiêu diệt những người bị kết tội ‘’trí thức tiểu tư sản’’, Phong trào ‘’Nhân Văn Giai Phẩm’’, những thành phần xã hội chưa chịu sự lãnh đạo của giai cấp ‘’vô sản’’.

Khác với Nam Hàn và Tây Đức, hòa bình và an ninh lâu dài không hề được bảo đảm cho Việt Nam Cộng Hòa. Hòa bình chân chính vẫn chưa đến sau cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hai mươi năm từ khi quê hương bị chia cắt, lấy sông Bến Hải làm giới tuyến. Một cuộc chiến vô cùng dã man và bất công đã ám sát chế độ tự do dân chủ và nhân bản ở Miền Nam, dù còn non trẻ nhưng đầy hứa hẹn tương lai, và sự chôn vùi hàng triệu đồng bào tị nạn bằng thuyền nhỏ dưới lòng đại dương sau Ngày 30 Tháng Tư năm 1975 và trong những năm tháng tiếp theo.

Chúng ta cũng cần phải xác quyết rằng cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam tự do sau tháng Bảy năm 1954 đến ngày 30 Tháng Tư năm 1975 không phải là một cuộc nội chiến. Lại càng không phải là cuộc chiến của Hoa Kỳ. Tấn công miền Nam Tự Do, Cộng sản Bắc Việt chỉ là một thứ lính đánh thuê cho đế quốc cộng sản Trung Hoa – Nga Sô Viết. Mục tiêu tối hậu là để thống trị ba nước Cam Bốt, Lào và Việt Nam trên bán đảo Đông Dương. Cho nên, trong suốt ba thập niên 50, 60, 70, chỉ có cuộc Kháng Chiến của dân tộc Việt Nam chống lại các đạo quân viễn chinh cộng sản được tập huấn từ Trung Hoa đỏ. Chúng tôi biết ơn hơn năm vạn thanh niên Hoa Kỳ và những chiến hữu đồng minh đã hy sinh để giúp đỡ nhân dân miền Nam Việt Nam. Về người lính Việt Nam Cộng Hòa, họ đã chiến đấu và hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc. Tổ Quốc Việt Nam trước nhứt và trên hết. Được ủy thác Trách Nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam là một niềm Danh Dự cho người lính Việt Nam Cộng Hòa. Họ không tuyên thệ trung thành với bất cứ một đảng phái chính trị, một nhân vật, lãnh tụ chính trị Việt Nam hay ngoại quốc nào. Cuộc Kháng chiến chống cộng dù đơn độc nhưng dũng cảm, chịu nhiều tổn thất đau thương, trước biển người cuồng tín ‘’sinh Bắc tử Nam’’. Hàng chục triệu thanh thiếu niên đã bị bọn lãnh tụ cộng sản lừa gạt, cưỡng bức, lùa vào cỏi chết thảm khốc. Những nạn nhân đó cũng là đồng bào, bà con, anh chị em, con cháu chúng ta, chẳng may bị buộc phải ở lại miền Bắc sau khi cộng sản tạm chiếm Hà Nội.

May mắn được sống sót trở về đất Bắc sau cuộc chiến tranh bất nhân và phi nghĩa của cộng sản Hà Nội, nhà thơ và nhà văn cựu chiến binh Bộ đội Bắc Việt Trần Đức Thạch là nhân chứng của những vụ cộng sản thảm sát thường dân miền Nam Việt Nam vào tháng 4 năm 1975. Bị hội nhà văn Nghệ An khai trừ, ông Trần Đức Thạch là tác giả  hồi ký «Hố Chôn Người Ám Ảnh». Năm 2008, ông bị kết án 3 năm tù giam và 3 năm quản chế về tội «Tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa». Bị hành hạ trong tù, ông mắc nhiều bệnh và sức khỏe của ông rất suy giảm. Kể từ khi ra tù, bất chấp nhiều cơ nguy của một vụ bắt giữ mới nữa, ông Trần Đức Thạch tiếp tục viết trên mạng xã hội. Năm 2010, ông Trần Đức Thạch được vinh danh bằng Giải thưởng Quốc Tế Nhân Quyền Human Rights Watch / Hellman Hammet. Ngày 23 tháng 4 năm 2020, ông lại bị bắt và bị buộc tội « Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân ». Ông Trần Đức Thạch bị đưa ra xét xử trong phiên tòa sơ thẩm tại Nghệ An và bị tuyên án 12 năm tù giam và ba năm quản chế.

Thủ phạm của tấn đại thảm kịch đầy máu và nước mắt của quê hương chúng ta chính là những lãnh tụ cộng sản Bắc Việt. Chúng gồm có trước hết là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng. Chỉ huy cơ quan an ninh, sử dụng guồng máy trấn áp, khủng bố nhân dân, từ Chính trị bộ xuống Trung ương đảng, Trần Quốc Hoàn và đám tướng tá công an được ủy nhiệm như Phạm Hùng, Mai Chí Thọ, Bùi Thiện Ngộ, Lê Minh Hương, Lê Hồng Anh, Trần Đại Quang, Tô Lâm. Cùng với các ‘’thái tử đỏ’’, ‘’công tử đỏ’’của triều đại phong kiến cộng sản. Thêm vào đó, bí thư đảng, xứ ủy, thành ủy, quận ủy, huyện ủy, các đại gia ‘’tư bản đỏ’’, thủ phạm lẫn đồng lõa, vô tình vô tâm vô cảm trước nỗi thống khổ của dân tộc. Hầu như tất cả các văn nghệ sĩ trong chế độ cộng sản Hà Nội đều biết ‘’sợ’’ để có chén cơm manh chiếu, biết trung với ‘’đảng’’ và hiếu với ‘’chủ dân’’ vốn là những tên ‘’đồ tể cách mạng’’ để có thể được thưa thốt, được viết lách, được in sách, được vịn vào chân ghế Hội nhà văn Việt Nam. Để miễn cưỡng sơn phết, miêu tả, ngợi ca những bộ mặt của tội ác cộng sản Hà Nội trong cuộc chiến tranh xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa.

Nhắc lại, năm 1960, dùng tay sai giấu mặt dựng lên cái gọi là ‘’Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam’’, cộng sản Bắc Việt theo đuổi đường lối cướp chính quyền miền Nam Tự Do bằng phá hoại, khủng bố, xúi giục bất ổn chính trị và mở cuộc chiến tranh du kích. Chuẩn bị cuộc xâm lăng, Cộng sản Bắc Việt tổng động viên toàn diện nhân lực và tài lực. Hai mươi triệu người dân miền Bắc biến thành nô lệ. Dân công, lao công, hộ lý, nghệ sĩ nhân dân, mẹ chiến sĩ, gia đình liệt sĩ, tất cả cho cuộc chiến khủng bố ở miền Nam. Từ những mật khu trên đất Lào và Cam Bốt, Cộng sản Bắc Việt không ngừng gởi đạo quân đặc công khủng bố vào miền Nam Tự Do. Chúng điên cuồng phá hoại tài nguyên và những công trình, cơ sở giáo dục, kinh tế và an sinh xã hội của một nền Cộng Hòa mới giành được tự do độc lập, thu hồi chủ quyền quốc gia. Chúng nhẫn tâm khủng bố đồng bào ruột thịt nổi tiếng bao dung, nhân ái và hiếu hòa ở miền Nam.

Không thể xóa nhòa hết được những chứng tích cộng sản tàn sát, hành hình, chôn sống nhiều ngàn đồng bào. Cảnh tượng kinh hoàng nhứt là ở cố đô Huế, trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968. Đồng bào đã trải qua 26 ngày đêm trong địa ngục tử thần khủng bố của Việt cộng. Cộng sản lùng bắt, tập trung các nạn nhân, trói chân tay, cột chùm với nhau, đốt cháy bằng xăng, ngồi trên mìn cho nổ, đập đầu bằng báng súng, lưỡi cuốc, bắn vào ót, đóng cọc đến cổ, xô đạp xuống hố, chôn sống tại chỗ. Mỗi hố chôn tập thể từ 5 đến 7 người. Riêng ở Khe Đá Mài, quân khủng bố cộng sản đã dùng đủ loại súng đại, trung, tiểu liên, lựu đạn và mìn giết hơn 400 người. Tại đây còn tìm thấy 430 sọ và xương các nạn nhân chưa bị nước dưới khe cuốn đi. Tổng cộng, chỉ riêng ở tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế, đồng bào đã tìm thấy và nhận diện 2326 sọ người trong số gần 6 ngàn nạn nhân bị khủng bố cộng sản hành quyết tại chỗ hoặc ám sát, thủ tiêu, bắt đi biệt tích. Trong số thường dân ngoại quốc bị sát hại, chúng ta phải nhớ đến các tu sĩ người Pháp và các bác sĩ người Đức cùng thân nhân của họ.

Một trong nhiều bản cáo trạng về hành vi tội ác cộng sản : Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã kiểm chứng bản Báo cáo năm 1960 tổng kết những vụ Cộng sản phá hoại và khủng bố. Thực tế còn nghiêm trọng hơn nhiều : gần 300 trường học, trạm y tế, trụ sở hành chánh, cơ quan xã hội, nơi thờ phượng tổ tiên, biểu dương đức tin tôn giáo, nhà cửa, tài sản thường dân bị đốt phá. Hàng vạn học sinh phải nghỉ học hoặc đổi trường học ở xa. Hàng trăm cô, thầy giáo, giáo sư bị sách nhiễu hung bạo, bị thương tích hoặc bị sát hại. Nhiều công chức hành chánh ở các  địa phương xa bị bắt cóc, thủ tiêu. Những năm kế tiếp cho tới khi miền Nam thất thủ, đặc công cộng sản đã gia tăng khủng bố nhắm vào dân chúng không có võ trang, bất kể phụ nữ, người già và trẻ con. Như những vụ Cộng sản ném lựu đạn, gài mìn, pháo kích vào các trường học, sân chơi, phòng chiếu bóng, khách sạn, bãi đậu xe hoặc cầu đường giao thông, bến tàu, quán ăn, nhà hàng v.v.

Chỉ kể lại vụ thảm sát bằng đạn súng cối bắn vào trường Tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) cũng đủ phơi bày những bằng chứng tội ác của đặc công, hung thần cộng sản. Trang sử viết bằng máu và nước mắt của tuổi thơ : khoảng ba giờ trưa ngày 9 tháng Ba năm 1974, tại trường Tiểu học Cộng đồng Cai Lậy, giờ ra sân chơi của các em học sinh. Gần 40 trẻ em ngây thơ vô tội đã chết thảm khốc và 65 đến 70 trẻ em bị thương phải đưa vào bệnh viện. Trong số những nạn nhân được biết tiếng bị cộng sản ám sát bằng chất nổ và lựu đạn ném vào xe hơi trên đường phố Sài Gòn, chúng ta không thể quên : nhà trí thức Nguyễn Văn Bông, nguyên Viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cố vấn Tối Cao Pháp Viện, bị sát hại ngày 10 tháng Mười Một 1971 và bác sĩ Lê Minh Trí, Bộ trưởng Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa, ngày 6 tháng Giêng 1969. Và còn nhiều, rất nhiều người yêu nước thương dân, nhiều tài năng quốc gia đã sớm ngã gục vì quân khủng bố cộng sản Bắc Việt.

Những hành vi tội ác đó của bọn đặc công cộng sản Bắc Việt được coi là khuôn mẫu, bài học thực tập cho các tổ chức khủng bố hồi giáo cực đoan và cuồng tín sau này. Như Taliban, djihad al-Qaïda hay salafist Daech, như Boko Haram, Hezbollah hay là Hamas. Nhưng là người Việt Nam, chúng ta có bổn phận phải nhớ và phải nói cho thế giới biết rằng hàng vạn, hàng trăm ngàn đồng bào đã chết hay mang thương tích suốt đời vì cộng sản Bắc Việt khủng bố. Trước khi thế giới bắt đầu thức tỉnh, biết xúc cảm, đau buồn, chịu tang : gần 3000 người đã thiệt mạng trong những vụ khủng bố của al-Qaïda ngày 11 tháng Chín năm 2011 ở New York, Hoa Kỳ. Biến cố thảm khốc đó đã xảy ra 6 năm sau vụ khủng bố ở Luân Đôn, vương quốc Anh khiến cho hơn 50 người thiệt mạng và 800 người bị thương. Trước khi có gần 200 người chết và 2 ngàn người bị thương vì bom của bọn khủng bố hồi giáo ở Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Rồi những năm gần đây, ở Paris, thủ đô Pháp với tòa báo Charlie Hebdo, với phòng ca vũ nhạc Bataclan, đầy máu và xác người bị hành quyết giữa ban ngày. Dài theo bờ biển Nice, Côte d’Azur, hơn 80 người chết, rất nhiều trẻ con, như vụ khủng bố giáo sư và học sinh tại trường học tư giữa Toulouse. Và ở phi cảng Bruxelles, vương quốc Bĩ, 22 tháng Ba 2016, chợ Giáng Sinh Bá Linh, Đức quốc ngày 19 tháng Mười Hai 2016, tổng cộng hơn 50 người chết, nhiều trăm người bị thương. Kể từ năm 2001, ở Moscou, liên bang Nga, đại hí viện, phi trường, xe lửa, xe điện hầm, hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị thương. Hàng ngày, hàng tuần, khủng bố ở Afghanistan, Irak, Syrie, Liban. Khủng bố ở Mali, Nigeria, Somalie, Cameroun, Algérie, Niger, Côte d’Ivoire, Burkina Faso, Libye, nói chung lục địa Phi Châu, chỉ riêng năm 2017, hơn 350 vụ khủng bố, 2700 nạn nhân, so với châu Âu gần 120 người chết trong 35 vụ khủng bố.

Sau khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bất hợp pháp bằng bạo lực phi nhân, tâm hồn và trí tuệ của một dân tộc hiếu hòa, cởi mở và chân thật bị quản chế, biệt giam, che mắt, bịt tai, bóp nghẹt tiếng nói. Nền văn hóa Việt Nam kết tinh từ mấy ngàn năm bị thui chột bởi một ý thức hệ ngoại lai, độc ác và không tưởng. Con người bị tẩy não, mất nhân tính, biến thành vong thân vong bản. Bọn vệ binh đỏ Việt cộng đã tàn phá nhiều thư viện lớn, nhiều tủ sách hiếm quý vô giá của miền Nam Việt Nam tự do. Vô số tác phẩm văn chương, biên khảo triết học, nhân văn và tôn giáo đã bị tịch thu, tiêu hủy hoặc cấm đoán. Hàng trăm tác giả văn học bị đấu tố, kết tội độc đoán. Hàng chục vạn tù nhân  bị nhục hình, hàng ngàn người đã chết hoặc mất tích trong hàng trăm trại tù tập trung lao động khổ sai. Cộng sản Hà Nội phải bị truy tố về tội ác đã gây ra những cái chết bi thảm được biết của một số nhà trí thức, sử gia, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ tài danh của miền Nam Việt Nam tự do. Như trường hợp thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhà trí thức Hồ Hữu Tường, nhà giáo dục Nguyễn Duy Xuân, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, sử gia Phạm Văn Sơn, nhà văn Dương Hùng Cường, nhà thơ Thục Vũ, nhà văn Chu Tử, nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, nhà thơ Hồ Đình Phương, nhạc sĩ Minh Kỳ, nữ nghệ sĩ Hồ Điệp và còn nhiều người nữa.

Lịch sử sẽ ghi đậm nét : bạo quyền Việt cộng đóng đô ở Hà Nội đối xử cực kỳ tàn ác, bất nhân với đồng bào miền Nam sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 cho đến hôm nay, 48 năm qua. Tồi tệ, kinh khiếp hơn thời thực dân Pháp. Dân cả nước cũng phải gánh đại khổ nạn cộng sản. Nhưng dân miền Nam vì bất khuất, biết liêm sỉ và ngay thẳng, bị cộng sản hành hạ, làm nhục, giết hại nhiều hơn hết. Cả nước bị nghiền nát dưới sức nặng của quân đội, công an và mật vụ. Bạo hành và trấn áp, thay vì phục vụ nhân dân và bảo vệ tổ quốc, những lực lượng võ trang cộng sản bị sử dụng để duy trì một chế độ độc tài hung ác và tham nhũng nhứt thế giới. Kể sao cho hết những trường hợp người dân bị buộc tội là thù nghịch, phản động, thuộc đủ mọi giới tính, tuổi tác và giai từng xã hội. Bị tra tấn, biệt giam, bỏ đói và đau ốm nặng không thuốc men, đày xa gia đình, nhiều nạn nhân đã chết cô đơn trong địa ngục cộng sản.

Làm sao quên được tình cảnh đồng bào bị chà đạp nhân phẩm, lao công là hàng xuất cảng rẻ tiền, trẻ con và phụ nữ bị rao bán ra ngoại quốc làm nô lệ, các bà mẹ dân oan bị chiếm nhà cướp đất. Làm sao không phẫn nộ, đau xót khi những người yêu nước, nam nữ thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ, nhà báo, tu sĩ, luật sư bị công an đội lốt côn đồ hành hung, đánh đập tàn nhẫn giữa ban ngày. Tội của họ chỉ là đã dám tuần hành để bày tỏ sự bênh vực nhân quyền, tố cáo một chế độ độc tài, bất công và tham nhũng nổi tiếng thế giới. Và tội của người dân phản kháng hành vi xâm lược của Trung cộng, cùng thái độ khiếp nhược, đầu hàng và đồng lõa của bạo quyền Việt cộng. Trong lúc đi triều cống, các lãnh tụ cộng sản Hà Nội cúi đầu nhìn xuống đất, không biết nhục nhã, hổ thẹn trước gót sắt của lãnh chúa đỏ Bắc Kinh kênh kiệu.

Ba Mươi Tháng Tư năm nay, chúng ta cùng nhau nhìn rõ mặt nạn ngoại xâm. Từ đe dọa, áp lực, trải biển người chiếm đất, thu tóm tài nguyên, tràn ngập hàng tiêu dùng và thuốc men giả mạo, thực phẩm độc hại, lũng đoạn kinh tế, đến hủy hoại môi trường môi sinh, hán hóa giáo dục và ngôn ngữ (được tăng cường với Học viện Khổng Tử tại đại học Hà Nội). Từ lâu, là hung thần đối với ngư dân Việt Nam, giặc xuất quân từ một ‘’nước lạ’’ mà mọi người dân Việt Nam đều biết là Trung Cộng. Chúng chiếm dần lãnh thổ, lãnh hải bao gồm trước nhứt các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và vùng trời quê hương chúng ta. Đến nay, các lãnh chúa Việt cộng ở Hà Nội vẫn ôm chặt cái chế độ CHXHCNVN với một đảng cộng sản vong thân, nhũng lạm từ hạ từng lên đến đỉnh cao. Chúng cam phận chư hầu của Bắc triều, đồng lõa với ngoại bang, nhứt là chế độ Nga độc tài phát xít đỏ Vladimir Poutine, để tiếp tục độc chiếm quyền lực và vơ vét tài sản của nhân dân. Chế độ cộng sản Hà Nội chỉ sống qua ngày bằng dối trá, ngu dân và bạo lực áp bức. Không, cộng sản Hà Nội không phải là một chính quyền của Dân, bởi Dân và vì Dân. 

Những lãnh tụ độc tài Hà Nội tiếp tục nhạo báng Công Lý mặc dầu các chuyên gia Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc từng lên tiếng tố cáo nhà nước cộng sản vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế về Nhân Quyền. Họ tố cáo những phiên tòa vi luật và bất công ở Việt Nam. Nhóm Công tác của Liên Hiệp Quốc về sự Giam Cầm độc đoán, xét hồ sơ khiếu tố Việt Nam, đã kết luận nhiều lần rằng việc Cộng sản Hà Nội giam cầm là tùy tiện, vi luật. Cộng sản Hà Nội không tôn trọng các cam kết quốc tế của họ trong các cuộc Khảo sát Nhân Quyền Định kỳ Phổ thông. Bạo quyền Cộng sản tiếp tục hình sự hóa các nhà văn, nhà báo, dịch giả, những người bảo vệ nhân quyền và môi trường đã dám hành sử quyền tự do ngôn luận của mình. Cộng sản áp dụng kiểm duyệt đi kèm với sự hăm he, sách nhiễu, hành hung, đe dọa, cưỡng bức mất tích và bắt cóc kể cả ở ngoại quốc.

Trong các trại lao động cưỡng bách, tù nhân bị ngược đãi, suy dinh dưỡng, không được chăm sóc y tế và bị tội phạm hình sự hành hung. Nhiều người bị tra tấn và thường xuyên bị biệt giam kỷ luật. Mặc dù bị đàn áp nghiệt ngả, có nhiều cuộc tuyệt thực được phát động nhằm chống lại các điều kiện giam cầm vô nhân đạo.

Cộng sản Hà Nội không giấu được thảm trạng nhiều người đã chết lúc đang thi hành án tù bất công trong lúc những nạn nhân đó không bao giờ có thể bị giam nhốt một ngày nào. Cũng như Cộng sản Hà Nội coi những người bất đồng chính kiến, những người đối kháng bạo quyền độc tài Cộng sản là «mắc bệnh tâm thần». Cộng sản Hà Nội bắt nhốt họ trong bệnh viện tâm thần và cưỡng bức họ dùng thuốc trị bệnh.

Hàng trăm vụ bắt giữ độc đoán và những bản án bất công với những hình phạt tù giam nặng nề trong những năm gần đây. Nhà cầm quyền của nước CHXHCNVN luôn luôn phủ nhận có tù nhân chính trị, tù nhân ngôn luận và lương tâm. Sự thật là những người này bị kết án rất nặng (5, 10, 15, 20 năm hay hơn nữa), bị giam cầm trong điều kiện khốn khổ, nhục hình và vô nhân đạo. Họ bị cộng sản Hà Nội dùng như con tin để thương lượng với các quốc gia dân chủ lấy viện trợ kinh tế hoặc quân sự. Tù nhân ‘’con tin’’ của cộng sản Việt Nam bị bắt buộc đổi sự tự do của họ bằng cách phải sống tha hương, trong khi bản án tù bất công và phi pháp vẫn không được xoá. Hoặc là họ rời bỏ quê hương, xa gia đình, hoặc là tiếp tục ở tù và chết dần chết mòn!

Những hành vi tội ác dã man của bạo quyền cộng sản Hà Nội hiện hữu chưa bị trừng phạt theo công pháp quốc tế. Tuy nhiên, không một ai, một thế lực nào có quyền và có thể xóa bỏ tội ác của chế độ ‘’phát xít đỏ’’, ngụy trang dưới tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cộng sản Hà Nội sẽ phải trả lời trước Tòa Án Nhân Loại về những Tội Ác vô cùng dã man, kinh khiếp, chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam, mà chúng đã gây ra đối với ba dân tộc anh em láng diềng Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Cộng sản Hà Nội cũng sẽ phải trả lời trước Tòa Án Nhân Loại về sự đồng lõa với Vladimir Poutine, lãnh tụ chế độ độc tài phát xít đỏ Nga, thủ phạm của những Tội Ác vô cùng dã man, kinh khiếp, chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh hiện đại mà chúng đã và đang gây ra đối với dân tộc Ukraine. Thế giới, nhân dân và chánh phủ Ukraine đã cho thấy họ biết rõ vì sao bạo quyền cộng sản Hà Nội chưa bao giờ dám lên án hay chỉ trích những hành vi tội ác của chế độ Vladimir Poutine trong các cuộc họp của Liên Hiệp Quốc, nhứt là tại các khóa họp của Hội Đồng Nhân Quyền ở Genève.

Tạm thay lời kết :

‘’Chế độ thực dân đã là xấu xa nhứt, nhưng bạo quyền Cộng Sản còn tệ hại hơn nhiều’’. Đó là tựa đề lớn của một bài viết mà nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt đã phổ biến và được nhiều nhựt báo ở Thụy Sĩ cho đăng nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Genève năm 1954. Biến cố lịch sử đó đã khiến cho hàng triệu đồng bào đã phải lìa bỏ miền Bắc, liều chết, tìm đường vào miền Nam Quốc Gia, và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa.

Nhà thơ Việt Nam lưu vong đã viết từ gần 20 năm trước :

(…) Khi xưa, Hiệp định Munich cũng đem lại ‘’hòa bình’’ ! Thứ hòa bình của Thần Chết trong các trại diệt chủng Auschwitz. Và tiếp theo là ‘’trật tự và ổn định’’, thứ trật tự và ổn định kiểu cộng sản tại Varsovie, Bucarest, tại Sofia, tại Tirana và Belgrade. Rồi các cuộc ‘’tái lập trật tự và ổn định’’ đẫm máu của cộng sản tại Berlin 1953, Hà Nội 1954, Budapest 1956, Lhassa 1959, tại Prague và Huế 1968, rồi Vientiane, Phnom Penh và Sài Gòn 1975. Tiếp theo là cuộc diệt chủng Cam Bốt với Khmers Đỏ !

(…) Theo Ân Xá Quốc tế, chế độ Việt cộng đứng hàng thứ hai tại Á Châu và hạng tư quốc tế về thành tích hành quyết các tử tội. Những trò hề luật pháp, các vụ bắt bớ bừa bãi và xử án nặng nề các văn thi sĩ, nhà báo, nhạc sĩ, các vị tu sĩ, tín hữu các Giáo hội thầm lặng, độc lập và các nhà tranh đấu cho Nhân Quyền được coi là vô địch trên diễn đàn thế giới.

(…) Theo Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh vực Nhà Văn bị Cầm Tù, nhiều nhà văn, nhà báo và trí thức đã bị giam cầm vì bị cáo buộc “tuyên truyền, làm gián điệp, gây phương hại cho an ninh quốc gia, lạm dụng các quyền dân chủ hoặc phá rối trật tự công cộng”. Rất quan tâm về tình trạng sức khoẻ suy yếu tồi tệ của nhiều tù nhân và đặc biệt là nhà luật học Lê Chí Quang 33 tuổi bị bệnh thận nặng…

(…) Theo Tổ chức ‘’Minh Bạch Quốc tế ‘’ (Transparency International), Việt cộng là một chế độ ‘’tham nhũng nặng nề’’, đứng hàng thứ 85 trên 102 quốc gia trong bảng xếp hạng các nước’’. Tại Á Châu chỉ có hai nước Bangladesh và Nam Dương là tranh giành được thành tích này với Việt cộng ! Ít nhứt 35% tiền viện trợ giúp đỡ để phát triển của quốc tế rơi vào túi tham nhũng. Không thể biết bao nhiêu tỉ âu kim Euro hay mỹ kim USD thất thoát mỗi năm. Nhưng ‘’Quốc sách tham nhũng’’ của đảng Việt cộng là một tội ác kinh khiếp đối với nhân dân Việt Nam mà tỷ lệ đói nghèo chiếm từ 37 đến 50% trên tổng số dân (…).

Những biến động xảy ra năm 1989 và năm 1991 khai mở cho các dân tộc Đông Âu và Liên Sô cũ nhiều lộ trình để giành lại Tự do và Nhân phẩm. Đứng trước những biến cố lịch sử đó, cộng sản Hà Nội vẫn giữ nguyên chủ nghĩa cực đoan cuồng tín. Chúng tôn thờ Staline và Mao Trạch Đông làm kiểu mẫu. Việt cộng còn lên án gắt gao Công đoàn Solidarność ở Ba Lan. Cho nên, ông Raymond Aron đã lên tiếng tố cáo: “Việt Nam (cộng sản), là sự áp bức đẩm máu đó”. Phát biểu của triết gia Pháp nổi tiếng làm nhớ đến câu nói của cựu bí thư đảng Xã hội Pháp, ông Jacques Huntzinger, đặc trách Quan hệ Quốc tế: “Hà Nội là đảng khắc nghiệt nhứt và áp chế nhứt trong tất cả các đảng Cộng sản”. Và còn nữa, cựu tổng bí thư đảng Cộng sản Ý, ông Enrico Berlinguer đã phê phán (các cựu đồng chí đang thống trị bán đảo Đông dương): “Những người (lãnh đạo) cộng sản Việt Nam là những tên đế quốc bẩn thỉu nhứt trong lịch sử các đế quốc”. Nhân dân Lào và Cam Bốt sẽ làm chứng một ngày một tháng năm nào đó trước tòa án quốc tế xét xử những tội ác của những kẻ cầm đầu đảng Việt cộng, cùng với đàn em, đồng chí Pathet Lào và Khmers đỏ (…).

Miền Nam Việt Nam Tự Do  bị bạo quyền Cộng sản chiếm đóng bất hợp pháp từ bốn mươi tám năm qua. Chúng tôi ra đi, biết chắc những người ở lại và Sài Gòn dung nhan yêu dấu, ngàn năm còn đứng trông.

Ra đi làm chứng cho lịch sử

Ra đi làm chứng cho ngày mai (…)

                                Đi không tìm quên hay bỏ trốn ,

Đi mở đường cứu lấy quê hương (…).

Chúng tôi sẽ trở về Việt Nam, nơi mà chân trời là biên giới mới, nơi chia tay giữa con người và bóng tối, giữa yêu thương và tội ác. Ở trong trái tim mỗi người Việt Nam chúng tôi, mỗi ngày là Ngày 30 của Tháng Tư Đen.

Đêm đêm dưới ánh sao Khuê, những đàn chim Việt, trên những đường bay vòng quanh trái đất, gọi nhau cùng hướng về quê hương. Chúng tôi đếm…Bấy nhiêu sao, bao nhiêu ánh mắt, bao nhiêu dòng lệ, mưa tuôn ướt xối trên những pho tượng đá, vẫn đứng đợi người sống sót trở về.

Từ Auschwitz hay Sibérie xa xăm, từ Vientiane hay Phnom Penh gần gũi, từ trại tù tập trung con tin trên đất nước Việt Nam tan vỡ…Chúng tôi đếm…bấy nhiêu ngọn nến, bao nhiêu nhánh Mặt trời Tự do sẽ mọc lại…Chúng tôi đếm…bấy nhiêu giọt sương long lanh, bao nhiêu chuổi cười ròn rã, bao nhiêu lớp người nô lệ sẽ đứng lên

Người đi góp sức với Người,

Mở đường để thấy Mặt Trời Bao Dung.

Genève ngày 30 Tháng Tư năm 2023

Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Ligue vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse

Vietnamese League for Human Rights in Switzerland

******************************************

Con Đường Chúng Ta Đi

Ra đi làm chứng cho lịch sử

Ra đi làm chứng cho ngày mai

Dân tộc hành trình tìm đất hứa

Hơn bốn ngàn năm mới đến đây

Đi vẫn còn đi tìm lẽ sống

Tìm Tự do Nhân Ái Hòa bình

Hạnh phúc Việt Nam thật giản dị

Năm ngón tay trên một bàn tay

Trong thoáng nhìn có chùm hoa nở

Buồn vui phơi ra ánh mặt trời.

Cộng sản làm sao mà đổ nát

Đổ quê hương nát cả tình người

Khủng bố khoác mỹ từ ‘Giải phóng’

Tù tập trung hầm tối khổ sai

Tuổi thơ bỏ học đi moi rác

Bụi đời mù mịt bóng tương lai

Đi vẫn còn đi tìm bằng hữu

Người ác hơn thú gọi ‘quang vinh’

Dắt dìu nhau băng rừng vượt biển

Mang theo năm mươi triệu tâm hồn

Đi vẫn còn đi qua cõi chết

Bãi mìn giặc cướp đáy vực sâu

Đi vẫn còn đi vì thế giới

Nhìn Việt Nam nhớ thân phận mình

Nhìn Lào Miên biết đâu địa ngục

‘Thiên đường đỏ’ đầy hố máu đen.

Mẹ yêu thương ơi không khóc nữa

Nước mắt dành cho mùa đoàn viên

Đau khổ nẩy mầm thành cây lúa

Các con về vàng chói cánh đồng

Cờ lau sẽ thay cờ liềm búa

Vươn lên từng mái ngói nóc tranh

Vươn lên những phố phường yêu dấu

Thăng Long Thần Kinh Gia Định Thành

Vươn lên chóp đỉnh trời xanh biếc

Niềm hân hoan tiếng chim sổ lồng

Hoa lan mọc kín mồ tập thể

Đàn trẻ thơ cười nói huyên thuyên

Bé chăn trâu ơi ngày trở lại

Đường quê không còn bóng hận thù.

Nhớ gương mặt buồn khi Tổ quốc

Nhìn vết thương trên trán đồng bào

Chiếc khăn tang phủ từng mái tóc

Vời trông tưởng chừng mây trắng bay

Đen tối nào hơn màu tuyệt vọng

Đêm tháng tư ác mộng kéo dài

Bạn ngã xuống chờ ta nối tiếp

Quang phục bình minh của đất trời.

Đi không tìm quên hay bỏ trốn

Đi mở đường cứu lấy quê hương

Ta hẹn gặp nhau ngày lịch sử

Sống một mùa Xuân, Xuân Việt Nam

Khắp ba miền vòng tay thân ái

Cao nguyên xuống đón ngàn khơi về…

Vững tay lái giữa vùng bão tố

Nhặt ánh sao để dệt niềm tin

Tin ở con người và đất nước

Biết xót thương cũng biết can trường

Qua tiếng sóng oan hồn nhắc nhở

Dân tộc hồi sinh có chúng tôi

Sấm sét bạo tàn không tắt được

Tiếng hát hò lơ trống ngũ liên

Đêm đêm thấy tấm lòng kẻ ở

Thắp sáng Trường Sơn soi biển Đông. (1979)

Nguyên Hoàng Bảo Việt

Trích Tập Thơ Dấu Tích Phượng Hoàng

Bạn Văn xuất bản – Paris 2008

và L’Empreinte du Phénix (Version française de Mme Hoàng Nguyên).

***************************************************************************************************

Youtube mới

NGƯỜI SỐNG SÓT TRỞ VỀ ,

Ca khúc NGUYỄN VĂN THÀNH – DÂN CHỦ CA – Trình bày AN MINH

Phổ từ bài thơ ‘’ KẺ SỐNG SÓT ‘’ của  NGUYÊN HOÀNG BẢO VIỆT

Người Sống Sót Trở Về

Danchuca phổ từ bài thơ “Kẻ Sống Sót” của Nguyên Hoàng Bảo Việt.

KẺ SỐNG SÓT

Đêm đã xuống

Trên đường trốn về Nam

Tìm sao để định hướng

Con chim Việt còn nhớ cành.

Sau lưng tôi

Bạn bè ở lại

Giữa trại tù tập trung

Nào ai biết

Dù màn sắt hay màn tre

Ngục hình của Cộng sản

Ngàn lần hơn Lao Bảo

Trăm lần hơn Côn Nôn

Luật rừng thời trung cổ

Khổ sai và tẩy não

Chung thân

Chết đói và tuyệt vọng

Muôn năm

Xích xiềng và liềm búa

Khua vang

Khua vang

Khua vang trong trí nhớ.

Mỗi hột cơm khô

Là một giọt máu

Anh em đã nhịn ăn

Cho tôi mang theo

Và nguyện cầu

Cho tôi được sống

Tự do

Cho tôi được hát

Tình ca

Cho tôi được viết

Bài thơ

Gởi đi thế giới

Nhân danh anh em.

Rùa thần nào đã nâng đỡ

Lúc tôi bơi qua Lô Giang

Sao không nghe nữa

Những tiếng hò khoan

Những mái chèo trăng

Đôi bờ im vắng

Sương khuya

Núi rừng Việt Bắc hoang vu

Bâng khuâng nhìn tôi đi

Trốn về Nam.

Dọc theo dòng Bến Hải

Phía bắc cầu Hiền Lương

Tôi đi lẩn khuất

Vũ Anh Khanh ơi!

Giọt máu nào

Trái tim Anh năm xưa

Hóa thành viên hồng ngọc

Dưới đáy nước cô đơn

Cho tôi nhìn thấy

Từ khi Cộng sản hạ sát Anh

Đâu chỉ có ‘Nửa Bồ Xương Khô’

Sọ người gom lại

Cả đồi cả núi

Máu nước mắt

Như triều sông

Dâng lên

Dâng lên

Dâng lên không ngớt.

Tôi vẫn đi trong bóng tối

Không nhìn thấy

Một con người

Đi trong mưa gió

Với tiếng vọng về từ biển

Xa xôi

Trị Thiên Nam Ngãi Bình

Lửa máu

Năm nào miền Trung di tản

Giặc pháo đuổi không nương tay

Trẻ khóc thiếp ôm xác mẹ

Chị cúi xuống hôn em lần cuối

Bà lão lạc đàn cháu mồ côi

Run rẩy hoảng hốt

Trận cuồng phong Maoist Stalinist

Đã thổi qua quê hương

Nhổ bật rễ tình cảm truyền thống

Vùi dập hoa thơm vườn văn hóa

Kéo dân tộc giật lùi

Về thời kỳ đồ đá

Xô triệu người ra biển

Bao nhiêu đến được bến bờ

Trên những ghe thuyền mục nát

Trôi giạt ngoài đại dương

Quên sao được

Việt Nam đau thương ơi!

Cả nước bị chiếm đóng

Máu dân tô màu cờ đảng

Rũ xuống những đồn canh

Lạng Sơn đến Cà Mau

Quân phản trắc

Rước giặc về

Bao vây Tổ quốc

Giày xéo mộ Quang Trung

Đấu tố Mẹ Âu Cơ

Theo sau quan thầy Sô-Viết

Lính đánh thuê Cuba Đông Đức

Làm nhục em gái chúng ta

Giặc tưởng Kaboul khi đến Huế

Cao nguyên Đà Lạt là rừng núi Angola

Đi nghênh ngang giữa Sài Gòn

Như lúc chúng tiến vào Prague

Lúc chúng hỏa thiêu Budapest

Lúc chúng đàn áp anh em ta

Ở Đông Bá Linh và Poznan

Bọn công an nhân dân

Làm sấm làm sét

Làm giông làm gió

Làm vua

Ở từng quận từng phường từng phố

Tôi nhìn tận mặt quân phi nghĩa

Tội ác ngàn năm cũng không quên.

Con nai bình nguyên

Bám sát chân tôi

Người và thú

Cùng bị săn đuổi

Từ Vàm Cỏ Đông

Nhìn về thành phố

Sài Gòn đâu đã ngủ

Tối tăm giờ giới nghiêm

Tôi đếm

Bấy nhiêu sao

Bao nhiêu ánh mắt

Bao nhiêu dòng lệ

Mưa tuôn ướt xối

U hoài

Trên những pho tượng đá

Vẫn đứng đợi

Người sống sót trở về

Từ Auschwitz hay Sibérie xa xăm

Từ Vientiane hay Phnom Penh gần gũi

Từ trại tù tập trung con tin

Trên đất nước Việt Nam tan vỡ…

Đằng sau những cánh cửa sổ

Khép vội trước mũi súng sát nhân

Sài Gòn đâu đã thất thủ

Thầm thì những lời ru con

Thay cho tiếng nói

Giặc đã cưỡng đoạt

Trên tháp chuông trơ vơ

Thập tự giá phô tấm lòng nhân ái

Dưới mái chùa hiu vắng

Hạnh từ bi nở ngát tòa sen

Bóng đen bầy quạ dữ

Bay vây quanh.

Tôi đếm

Bấy nhiêu ngọn nến

Bao nhiêu nhánh mặt trời Tự do

Sẽ mọc lại.

Tôi đếm

Bấy nhiêu giọt sương long lanh

Bao nhiêu chuỗi cười ròn rã

Bao nhiêu lớp người nô lệ

Sẽ đứng lên.

Nguyên Hoàng Bảo Việt (1978)

* Trích tập thơ Dấu Tích Phượng Hoàng do Bạn Văn Paris Pháp xuất bản 2008

và L’Empreinte du Phénix (Version française de Mme Hoàng Nguyên).


Genève ngày 30 Tháng Tư năm 2023

Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Ligue vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse

Vietnamese League for Human Rights in Switzerland

Tags: , , , ,

Comments are closed.