Tập Trọng hủy hoại tương lai của con cháu bạn ra sao? – Ts. Phạm Đình Bá


27/9/2023

Ban đầu, TQ dường như đều làm đúng mọi chuyện. TQ dường như – ít nhất là đối với một số người – đã phát triển một hệ thống vượt trội hơn sự lộn xộn và có vẻ hỗn loạn của các hệ thống thị trường ở phương Tây, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Nhưng bức tranh TQ luôn là ảo tưởng.

Thành công của TQ không phải do tính ưu việt vốn có của hệ thống cộng sản mà do thực tế là đất nước này quá nghèo ngay từ đầu. Nhà nước chưa phát triển của TQ đã tạo đòn bẩy to lớn cho dòng vốn đầu tư từ phương Tây và Nhật Bản bắt đầu ngay sau khi Đặng Tiểu Bình mở cửa TQ. “

How to End Poverty in Vietnam - Soapboxie

Hơn một thập kỷ kể từ khi nắm quyền lãnh đạo, Trọng đã siêng năng và giáo điều trong việc sao chép cách tiếp cận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Tập, đặc biệt là việc tập trung quyền lực kinh tế vào “đảng”, việc tạo dựng các cơ quan kinh doanh để “đảng” dễ lũng đoạn, việc làm kế hoạch kinh tế tập trung hoặc làm các chính sách công nghiệp tập trung. 

Cái ngu của cả hai thầy trò Tập Trọng là ra sao?

Tập Trọng đã và đang làm hại tương lai của hàng tỉ dân Tàu và trăm triệu dân ta ra sao?

Những tai ương kinh tế của TQ có vẻ khó giải quyết, phần lớn là do chúng có nguồn gốc đa dạng. Tuy nhiên, vấn đề rắc rối nhất của TQ là vấn đề mà TQ sẽ gặp khó khăn nhất trong việc giải quyết: cách tiếp cận kinh tế có kế hoạch và tập trung. Hơn bất cứ điều gì khác, những sai lầm tiềm ẩn trong hệ thống này đã dẫn đến những tai ương hiện tại và việc TQ không thể lấy lại động lực tăng trưởng trước đây. 

Thất bại này sẽ nổi bật như một lời cảnh báo cho bất kỳ quốc gia nào muốn xem xét kế hoạch hóa quốc gia hoặc chính sách công nghiệp tập trung.

Vấn đề với kế hoạch hóa tập trung – dù được thực hiện một phần, như ở phương Tây và Nhật Bản, hay được thực hiện một cách toàn diện, như ở TQ – đều bắt nguồn từ một thực tế không thể tránh khỏi là không ai có thể nhìn thấy được tương lai. Các nhà lập kế hoạch ở các quốc gia như TQ có thể quyết định hướng đi của nỗ lực kinh tế. Ở những nơi khác, các nhà quy hoạch có thể sử dụng trợ cấp, các khoản vay chi phí thấp, tín dụng thuế và những thứ tương tự để thúc đẩy nền kinh tế tư nhân theo hướng ưa thích của họ. 

Nhưng trong mọi trường hợp, các nhà quy hoạch nầy không thể chắc chắn rằng người tiêu dùng sẽ muốn những sản phẩm mà họ cho là quan trọng. Họ cũng không thể lường trước được những tiến bộ công nghệ có thể khiến những công nghệ dường như thiết yếu ngày nay trở nên lỗi thời. 

Nếu rất có thể kế hoạch của các nhà quy hoạch không đạt mục tiêu, nền kinh tế sẽ tiêu tốn một lượng vốn và lao động khổng lồ vào các hoạt động lãng phí, trong khi sự phân tán nguồn lực sẽ ngăn cản những nỗ lực thay thế có thể đáp ứng nhu cầu trong tương lai và thúc đẩy tăng trưởng. TQ đã mắc phải một số sai lầm như vậy, hầu hết đều ở quy mô lớn.

Trong một thời gian dài, kế hoạch của TQ dường như đã tránh được những vấn đề này. Từ cuối những năm 1970, khi Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên mở cửa nền kinh tế đất nước ra thế giới, cho đến gần đây, tốc độ tăng trưởng mỗi năm là rất ngoạn mục, trên 10% một năm. 

Khi nền kinh tế đang phát triển của TQ vượt qua nền kinh tế Nhật Bản vào năm 2010, thật dễ dàng để dự báo tốc độ mở rộng của nước này và suy đoán rằng nền kinh tế TQ sẽ sớm vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. 

Ban đầu, TQ dường như đều làm đúng mọi chuyện. TQ dường như – ít nhất là đối với một số người – đã phát triển một hệ thống vượt trội hơn sự lộn xộn và có vẻ hỗn loạn của các hệ thống thị trường ở phương Tây, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Nhưng bức tranh TQ luôn là ảo tưởng.

Thành công của TQ không phải do tính ưu việt vốn có của hệ thống cộng sản mà do thực tế là đất nước này quá nghèo ngay từ đầu. Nhà nước chưa phát triển của TQ đã tạo đòn bẩy to lớn cho dòng vốn đầu tư từ phương Tây và Nhật Bản bắt đầu ngay sau khi Đặng Tiểu Bình mở cửa TQ. 

Sự kém phát triển cũng làm cho công việc lập kế hoạch trở nên tương đối dễ dàng. Để nắm bắt được tương lai, tất cả những gì các nhà lập kế hoạch của TQ cần làm là nhìn vào thế giới phát triển. Ở đó, họ có thể thấy sự cần thiết của những con đường, đường dây điện, đường sắt, cơ sở hạ tầng cảng và những thứ tương tự. Ở TQ kém phát triển, việc theo đuổi các dự án này đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn và thúc đẩy tăng trưởng với tốc độ còn nhanh hơn. 

Tuy nhiên, mọi thứ đã thay đổi khi nền kinh tế TQ bắt đầu bắt kịp các nước phát triển. Các nhà quy hoạch trung tâm của TQ sau đó đã đánh mất mô hình tương lai của họ. Họ cũng chìm trong bóng tối như các nhà lập kế hoạch phương Tây và Nhật Bản. 

Nhu cầu tương lai của đất nước trở nên khó đánh giá hơn. Những sai lầm trở nên phổ biến hơn. Và bởi vì các nhà quy hoạch của TQ có quyền lực lớn trong việc sắp xếp các nguồn lực tài chính, quản lý và lao động, những sai lầm đó đã tạo ra sự lãng phí lớn.

Lấy ví dụ minh họa cho khó khăn hiện tại của TQ là trong việc phát triển khu dân cư. Nhiều năm trước, cả nước không có đủ nguồn cung nhà ở. Các nhà quy hoạch có thể nhận thấy nhu cầu và khuyến khích phát triển thông qua trợ cấp, thu xếp tài chính thông qua các ngân hàng quốc doanh, và bằng cách đẩy nhanh việc cấp phép để xây chung cư. Các nhà phát triển đã đáp ứng các ưu đãi từ nhà nước và đã xây dựng các khu chung cư rộng lớn. Những nỗ lực ban đầu đã được đền đáp xứng đáng bởi chúng đáp ứng nhu cầu nhà ở thật sự. 

Nhưng ngay cả khi đất nước bắt đầu đáp ứng nhu cầu nhà ở, các nhà quy hoạch vẫn tiếp tục nỗ lực xây. Nhờ sự hỗ trợ của chính phủ, các nhà phát triển ngày càng trở nên có cơ hội và đòn bẩy để chuyển sang các dự án xây dựng với giá trị đáng ngờ hơn, xây lên ở những nơi ít có khả năng đáp ứng nhu cầu của dân hơn. 

TQ đã thúc đẩy sự phát triển đáng ngờ này đến mức cho đến gần đây bất động sản vẫn chiếm khoảng 25-30% nền kinh tế. Để so sánh, việc xây dựng khu dân cư trong một năm phát triển mạnh mẽ ở mức khoảng 5% của nền kinh tế Hoa Kỳ. 

TQ đã xây dựng nhiều nhà ở hơn mức dân số có thể tiếp nhận và đặt nhà xây ở những nơi mà người dân TQ không nhất thiết muốn sinh sống. Những dự án này không thành công. Đó là lý do tại sao rất nhiều công ty phát triển TQ – từ Evergrande đến Country Garden – đã thất bại.

Phát triển khu dân cư không phải là thất bại duy nhất trong quy hoạch định hướng. Quá trình kinh tế định hướng chứa đầy những việc như xây những con đường dẫn đến hư không, các tuyến đường sắt không được sử dụng, các cơ sở hải cảng không được đặt đúng chỗ, cũng như tình trạng thiếu điện thường xuyên. 

Trong bế tắc hiện nay, TQ không đơn độc. Tất cả các nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển vượt trội đều thiếu mô hình và mắc sai lầm về nhu cầu của một tương lai không thể biết trước. Nước Mỹ có nhiều ví dụ về nỗ lực lãng phí do lập kế hoạch kém, thường là do lợi ích kinh doanh. 

Nhưng cũng có sự khác biệt lớn so với hệ thống kế hoạch hóa tập trung của TQ và kinh tế tự do ở Mỹ. Cách tiếp cận theo thị trường tự do của Mỹ giúp hạn chế sai sót ở quy mô nhỏ hơn so với các sai sót lớn của hệ thống kinh tế định hướng tập trung như của TQ. Hơn nữa, sự đa dạng của nỗ lực trong một hệ thống thị trường tự do bao gồm nhiều chủ thể độc lập có nhiều khả năng phát hiện ra các nhu cầu trong tương lai hơn là những nỗ lực tập trung nhất thiết của một hệ thống kế hoạch hóa tập trung.

Nền kinh tế tự do dựa trên thị trường cố gắng nắm bắt nhu cầu trong tương lai thông qua các kế hoạch riêng biệt của hàng chục nghìn doanh nghiệp và cá nhân. Chắc chắn là các nhà quản lý doanh nghiệp không thể nhìn thấy tương lai tốt hơn các nhà hoạch định chính phủ. Nhưng mỗi sai lầm đều nhỏ hơn so với cách tiếp cận kế hoạch hóa tập trung. 

Ngoài ra, không giống như những nỗ lực của nhà nước, các nhà lập kế hoạch kinh doanh trong thị trường tự do phải đối mặt với ngân sách eo hẹp hơn, liên tục xem xét lại những nỗ lực của mình và bởi vì họ cũng gần gũi hơn với khách hàng của mình nên ít có khả năng theo đuổi một dự án thất bại trong thời gian dài như những nhà lập kế hoạch tập trung và trung tâm ở xa. 

Có lẽ điều quan trọng nhất là cách các thị trường tự do thu hút sức mạnh từ sự thiếu tập trung và thiếu kỷ luật rõ ràng trong các cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Sự nỗ lực đa dạng khi hàng nghìn người theo đuổi các dự án đa dạng làm tăng khả năng rằng ở đâu đó trong mớ hoạt động hỗn loạn, một trong số tư nhân sẽ phát hiện ra một trong những nhu cầu khó nắm bắt trong tương lai, phát triển dựa trên nhu cầu đó và đóng góp cho sự thịnh vượng của quốc gia.

Hãy nhìn vào mức nợ để thấy mức độ lãng phí do kế hoạch hóa tập trung gây ra. Mọi dự án, dù được cơ quan quy hoạch hay doanh nghiệp tư nhân thúc đẩy, đều cần nguồn tài chính và thường tạo ra nợ, dù là nợ do chính quyền trung ương, chính quyền địa phương hay tổ chức tư nhân phát hành. 

Việc so sánh mức nợ tương đối giữa các hệ thống có thể chỉ ra quy mô của các dự án không đạt mục tiêu và không tạo ra lợi ích kinh tế. Ở TQ, con số nợ này rất lớn. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), mức nợ tổng hợp ở TQ tăng trung bình khoảng 23% mỗi năm trong 10 năm kết thúc vào năm 2019, trong khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ khoảng 8%. Dữ liệu so sánh của Hoa Kỳ cho thấy tổng nợ ở đó tăng trung bình khoảng 5,6% một năm trong thời gian này, nhanh hơn so với mức tăng trưởng danh nghĩa khoảng 4% trong nền kinh tế, nhưng khoảng cách không lớn như ở TQ. 

Tính đến năm 2022, nợ liên bang, địa phương, tiểu bang và tư nhân ở Hoa Kỳ lên tới khoảng 57 nghìn tỷ USD, gấp khoảng 2,2 lần tổng sản lượng của quốc gia. Lượng nợ tương đương đối với TQ ở mức gần gấp 3 lần tổng sản lượng của TQ, cho thấy rằng tích lũy từ các dự án ở TQ lại cao hơn một phần ba so với ở Hoa Kỳ.

Tất nhiên, những người lập kế hoạch tập trung có thể gặp may và đôi khi cũng như vậy. Điều đó có thể đúng với các nhà lập kế hoạch của TQ. Họ đã nhắm tới các chip máy tính tiên tiến, trí tuệ nhân tạo, xe chạy điện, công nghệ pin và các đầu vào cơ bản trong kế hoạch của mình – chính xác là những gì mà các tiêu đề dự phóng ngày nay cho tương lai. Những thứ này có thể trở thành tương lai, nhưng cũng có khả năng là một công nghệ mới sẽ thay thế chúng. 

Đó chính xác là những gì đã xảy ra vào những năm 1980 khi việc sử dụng rộng rãi bộ vi xử lý của Intel đã khiến các kế hoạch lãng phí của Nhật Bản nhằm dồn ép thị trường vào những con chip phát triển theo kiểu Nhật. Vì Washington và các thủ đô quốc gia khác đang nhắm tới các sản phẩm tương tự, nên không có gì lạ khi tương lai sẽ chứng kiến ​​​​sự dư thừa toàn cầu về chất bán dẫn và những thứ tương tự mà các nhà lập chính sách công nghệ muốn hướng dẫn đầu tư quốc gia. 

Hoặc công chúng mua hàng – dù ở Hoa Kỳ, TQ hay nơi nào khác – có thể trở nên ít quan tâm đến xe chạy điện hơn những người lập kế hoạch mong muốn. Trong bất kỳ sự kiện nào trong số này, phần lớn nỗ lực và nguồn lực do các nhà quy hoạch này sắp xếp sẽ không mang lại kết quả kinh tế như mong đợi, trong khi đó, tất cả nỗ lực đó sẽ lấn át các dự án thay thế mà lẽ ra có thể đáp ứng được nhu cầu trong tương lai.

Nhưng trong kinh tế thị xã hội chủ nghĩa mà Tập và Trọng làm thì quyền lợi của dân chỉ được cân nhắc với ưu tiên rất thấp so với việc tạo điều kiện để duy trì độc tài độc đảng toàn trị và việc tham nhũng của đảng viên và cán bộ.

Nguồn: Milton Ezrati. China’s Economic Woes Should Warn All Against Centralized Planning. Available at: 

https://www.forbes.com/sites/miltonezrati/2023/09/24/chinas-economic-woes-should-warning-all-against-centralized-planning/

Tags: , ,

Comments are closed.