49 năm sau ngày 30-4-1975: Con đường nào cho Việt Nam?


Bởi AdminTD -29/04/2024

29-4-2024

Ông Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ của CSVN, đã từng phát biểu vào năm 2005 một câu để đời, có ý nghĩa nhân đạo rất cao và rất đáng suy ngẫm sâu về lịch sử dân tộc có liên quan tới biến cố ngày 30-4-1975 như sau: “Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia (…). Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu“.

Mạnh dạn phát biểu lên được ý tưởng này nhằm kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc, hàn gắn vết thương chiến tranh, có lẽ vì ông Kiệt là một trong những chiến sĩ-nhà lãnh đạo kháng chiến gốc miền Nam đã từng trải, hiểu biết và cảm thông sâu sắc với hoàn cảnh của mọi thành phần dân chúng miền Nam ở cả hai bên chiến tuyến, mà chính trong dòng tộc ông cũng có người ở cả phe này lẫn phe kia đối đầu nhau, trong cuộc chiến tranh khốc liệt đầy thương đau kéo dài suốt 30 năm.

Ý kiến nhận định của ông cố thủ tướng nêu ra như trên, từ hồi cuối tháng ba năm 2005, đã nhận được ngay sự hoan nghênh nhiệt liệt của đông đảo quần chúng Việt Nam yêu nước có lương tri, không phân biệt Bắc-Nam, bình dân hay trí thức, đang ở trong nước hay ngoài nước.

Tuy nhiên, lời kêu gọi cảm thông đầy thiện ý này cũng đã không hề nhận được những phản ứng đơn giản.

Bản chất của vấn đề này thực ra là mưu kế thâm độc của các thế lực thù địch, hòng xem nhẹ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, xóa nhòa chiến công, đánh đồng giữa ta và địch…”.

Chính điều này giải thích vì sao, sau ngày 30-4-1975, một số chính sách do nhà cầm quyền đưa ra gọi là hòa giải hòa hợp dân tộc nhưng trên thực tế vẫn là nói suông, chưa được thực thi một cách chân thành, đầy đủ, và do vậy, đó cũng là điều không mấy khó hiểu. Sự mất mát đau thương của cả dân tộc cùng với mối chia rẽ hận thù trong nội bộ người Việt vì vậy đến tận hôm nay vẫn còn là câu chuyện dài nhức nhối chưa được giải quyết thỏa đáng dứt khoát, dù thời gian đã trải qua chỉ một năm nữa là tròn nửa thế kỷ!

Cho đến nay, tình trạng nhân tâm ly tán, sự chia rẽ hận thù còn nặng nề trong nội bộ dân tộc cần được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng lạc hậu, khi mà chính quyền cho đến nay vẫn coi ai ở trong nước hay nước ngoài nói trái ý mình đều thuộc “các thế lực thù địch”, trái hẳn với câu nói cửa miệng của các quan chức CS theo nghị quyết, “Cộng đồng người Việt ở nước ngoài là một bộ phận quan trọng không thể thiếu đối với dân tộc Việt Nam, cần phải được coi trọng…”.

Trở lại vấn đề đoàn kết và hòa giải hòa hợp, muốn dân tộc có sức mạnh vươn lên phát triển, mang lại hạnh phúc cho toàn dân, thì phải gác lại quá khứ, xóa bỏ mọi sự tị hiềm và nghi kỵ, hướng đến tương lai, lấy quyền lợi dân tộc làm mục tiêu nền tảng. Hòa giải hòa hợp dân tộc là sự đòi hỏi bức bách thiêng liêng của mọi người dân Việt, bất kể ở trong hay ngoài nước, không phân biệt màu cờ sắc áo thành phần lý lịch thuộc cũ hay mới, nhưng không có nghĩa là sự ban ơn bằng nghị quyết này nọ của kẻ thắng đối với người thua (như Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2004), mà phải được coi là mệnh lệnh tối thượng tất yếu của lịch sử. Để cho tình trạng chia rẽ nghi kỵ lẫn nhau kéo dài cho đến tận hôm nay qua thực tế lời nói không đi đôi với việc làm, thì trách nhiệm (nếu không muốn nói tội lỗi) chủ yếu phải quy về cho những người cầm quyền.

Nếu chính sách thật sự tốt dẫn đến cả nội trị lẫn ngoại giao đều tương đối tốt, mang lại độc lập tự do hạnh phúc cho nhân dân, thì mọi người trong và ngoài nước, kể cả thành phần di tản sau ngày 30-4-1975, chắc chắn đều sẽ tâm phục khẩu phục, thậm chí còn mong cho nhà nước Cộng sản được thiên niên trường trị, chứ nói xấu để mà làm gì.

Đến đây, bất tất phải dài dòng thêm, nhân ngày lịch sử 30 tháng Tư năm nay, chúng tôi, các cá nhân, nhóm trí thức và tổ chức dân sự, xin tuyên bố một số đề nghị với nhà cầm quyền như sau:

1. Tích cực xây dựng khối đại đoàn kết trên cơ sở thúc đẩy một cách chân thành chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc, ra sức củng cố nội trị và ngoại giao để đủ sức đối phó hữu hiệu với bất kỳ âm mưu xấu xa nào từ phía ngoại bang (nếu có) đối với đất nước ta, kể cả việc vi phạm trắng trợn chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.

Ngoại giao “cây tre” nhưng cần phải có sự thành thật đúng mực, bởi thiếu yếu tố này thì cũng không lừa dối được ai…

3. Thực hành ngay và đầy đủ các nội dung ghi trong Hiến pháp 2013 do chính người Cộng sản soạn nên. Đặc biệt nhanh chóng thực hiện trên thực tế và đúng thực chất điều 25 Hiến pháp về các quyền tự do dân chủ để động viên sức mạnh của toàn dân cả trong lẫn ngoài nước. Mạnh dạn phóng thích lập tức toàn bộ “tù nhân lương tâm”.

4. Nâng cao vai trò của Quốc hội, tổ chức bầu cử tự do, quốc hội cần có mọi thành phần nhân dân tham gia, dẹp bỏ nạn cơ cấu sẵn. Tập trung cải cách tư pháp (gồm điều tra, công tố và tòa án), ngành tòa án phải độc lập với hành pháp, quốc hội, đảng phái trong việc xét xử . Không xét xử “bỏ túi”; trả lại vai trò đích thực của nghề luật sư; chống chạy án vốn là hiện tượng rất phổ biến lâu nay; rà soát lại tất cả các vụ án oan, những vụ còn tồn đọng kéo dài hoặc đã xét xử nhưng chưa đảm bảo đúng pháp luật…

5. Đấu tranh chống tham nhũng quyết liệt từ gốc bằng việc triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tham nhũng và tiêu cực, qua một cuộc cải cách căn bản ở tầm vĩ mô cả về kinh tế lẫn chính trị, trên cơ sở mô hình nhà nước pháp quyền thực sự (không ai hay tổ chức nào được đứng trên pháp luật); nền tư pháp độc lập; báo chí tự do và độc lập; khuyến khích sự phát triển của xã hội dân sự; cải cách căn bản tiền lương cho cán bộ công nhân viên chức.

6. Coi ngày 30 tháng 4 hàng năm như một ngày kỷ niệm lịch sử bình thường, không tổ chức rầm rộ để tự hào chiến thắng. Chấm dứt nhắc lại tất cả những quá khứ đau buồn, những vấn đề có liên quan đến cuộc chiến Bắc-Nam, có nguy cơ đào sâu thêm mối chia rẽ gây mất đoàn kết dân tộc.

Chúng ta hy vọng năm tới, sau nửa thế kỷ vào ngày 30 tháng 4 năm 2025, toàn thể người Việt Nam đoàn kết thống nhất, bỏ lại sau lưng mọi sự nghi kỵ và tị hiềm, để đất nước có thể bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của đoàn kết, phát triển phồn vinh.

(Quý vị ký tên hưởng ứng xin gởi về paracelle19011974@gmail.com )

Ngày 28 tháng 4 năm 2024.

Các tổ chức Xã Hội Dân Sự:

1. Lập Quyền Dân: Ông Nguyễn Khắc Mai đại diện.

2. Diễn đàn XHDS: Tiến sĩ Nguyễn Quang A đại diện.

3. Câu lạc bộ Nguyễn Trọng Vĩnh: Giáo sư Nguyễn Đình Cống, đại diện.

4. Bauxite Việt Nam, GS Ngữ văn, đại diện.

5. Câu lạc bộ Phan Tây Hồ: Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, đại diện.

6. Ban Vận Động Văn Đoàn Độc Lập: PGS TS Hoàng Dũng.

7. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng: Nhà báo Lê Phú Khải, đại diện.

8. Ủy Ban ĐT/CT CĐ Liên Châu: Ông Nguyễn Sơn Hà, đại diện.

Cá nhân:

1. Nguyễn Khắc Mai, nhà nghiên cứu Văn Hóa Minh Triết, Hà Nội.

2. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Hà Nội.

3. Giáo sư Nguyễn Đình Cống, Hà Nội.

4. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, Đà Lạt.

5. Trần Hữu Quang, Phó GS-TS Xã Hội Học, TP.HCM.

6. Vũ Trọng Khải, Phó GS-TS CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP TP.HCM.

7. Lê Phú Khải, nhà báo, CLB Lê Hiếu Đằng, Saigon.

8. Mạc Văn Trang, PGS-TS Tâm lý học. TP.HCM.

9. Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ, Đạo diễn, CLB Lê Hiếu Đằng Saigon.

10. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An – Quảng Nam.

11. Andre’ Mendras (Hồ Cương Quyết) nhà giáo Pháp – Việt, CLB Lê Hiếu Đằng Paris Pháp.

12. Kha Lương Ngãi, nguyên phó TBT báo SGGP, CLB Lê Hiếu Đằng, Saigon.

13. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, CLB Lê Hiếu Đằng, Saigon.

14. Thiều Thị Tân Daniel, CLB Lê Hiếu Đằng, Saigon.

14. Đỗ Như Ly, kỹ sư, CLB Lê Hiếu Đằng Saigon.

15. Trần Minh Quốc, nhà giáo, CLB Lê Hiếu Đằng, Cần Thơ.

16. Bùi Nghệ, kỹ sư, CLB Lê Hiếu Đằng Saigon.

17. Võ Văn Thôn, nguyên GĐ Sở Tư Pháp TP.HCM, CLB Lê Hiếu Đằng, Saigon.

18. Lê Thân, hưu trí, CLB Lê Hiếu Đằng, Saigon.

19. Hoàng Hưng, nhà thơ, Saigon.

20. Hoàng Dũng, PGS-TS Ngữ văn, Saigon.

21. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, hưu trí, TP.HCM.

22. Nguyễn Huệ Chi, GS Ngữ văn, Hà Nội.

23. Nguyễn Đình Nguyên, Tiến sĩ Y khoa, Australia.

24. Phan Hoàng Oanh, Tiến sĩ Hóa Học, Saigon.

25. Nguyễn Mai Oanh, Ths Kinh tế Phát triển, Saigon.

26. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nhà báo Đà Lạt.

27. Giám mục Phaolo Nguyễn Thái Hợp.

Bình Luận từ Facebookhttps://www.facebook.com/v13.0/plugins/comments.php?app_id=451614615268167&channel=https%3A%2F%2Fstaticxx.facebook.com%2Fx%2Fconnect%2Fxd_arbiter%2F%3Fversion%3D46%23cb%3Dfe04fa6d03ef619c4%26domain%3Dbaotiengdan.com%26is_canvas%3Dfalse%26origin%3Dhttps%253A%252F%252Fbaotiengdan.com%252Ffcf048bb7fd3d5ecc%26relation%3Dparent.parent&container_width=696&height=100&href=https%3A%2F%2Fbaotiengdan.com%2F2024%2F04%2F29%2F49-nam-sau-ngay-30-4-1975-con-duong-nao-cho-viet-nam%2F&locale=en_US&numposts=10&order_by=social&sdk=joey&version=v13.0&width=

Comments are closed.