Lạp Chúc Nguyễn Huy*  – Văn Hóa XHCN tại Việt Nam


Người cộng sản thất trận văn hóa như thế nào?

* Cựu Giảng sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn

Bài 5 và 6

January 21, 2022

Từ năm 1975, sáng tác văn nghệ phục vụ văn hóa XHCN mỗi ngày một nghèo nàn dần rồi biến mất? Nếu đặt câu hỏi tại sao thì chỉ cần đọc lại lời chỉ đạo văn hóa của Hồ Chí Minh và Trường Chinh sẽ tìm thấy câu trả lời.

Hồ Chí Minh nói: “Văn hóa mới là văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân”.
Trường-Chinh chỉ đạo mục đích sáng tác là: “Thắng địch, giữ nước”.”

https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/01/img_01-1.png

Bài 5. Nhóm Nhân văn giai phẩm

Nhân văn giai phẩm là nhóm văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chống đối lập trường sáng tác văn hóa của Đảng đề ra. Nhân văn giai phẩm là một trào lưu tư tưởng dân chủ, một trạng thái giao tranh giữa tư tưởng dân chủ với tư tưởng độc tài văn hóa, tư tưởng toàn trị với tư tưởng pháp quyền, phản ánh tình trạng văn học thành văn dưới chế độ văn hóa XHCN.

Thành phần

Thành phần của nhóm bao có khoảng 170 người[1] gồm các nhà thơ, nhà văn tên tuổi với những tác phẩm bất diệt như:

Thi sĩ: Hữu Loan, Màu Tím Hoa Sim; Hoàng Cầm, Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống; Quang Dũng, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây,

Nhà văn : Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, Phùng Quán,

Nhạc sĩ: Văn Cao

Giới trí thức : Nguyễn Mạnh Tường

Mục tiêu

Mục tiêu của phong trào là đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ“, phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, công nông binh vì họ không muốn bó mình trong cũi sắt để tham gia công tác xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa.  Lê Đạt mô tả hiện thực xã hội chủ nghĩa giống như việc đặt các đồn cảnh sát và máy móc thiết bị vào giữa trái tim con người, buộc cảm xúc phải thể hiện theo như một bộ quy tắc mà chính phủ ban hành.

Đường lối làm văn hóa của nhóm

Nhân văn giai phẩm được khởi xướng đầu năm 1955 và chính thức bị đàn áp từ tháng 6 năm 1958 vì văn nghệ sĩ không chịu nhốt mình trong cái khuôn của Đảng đề ra: văn nghệ phải phục vụ công, nông, binh, xây dựng xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối phục tùng Đảng.

Thay mặt cho nhóm, ông Trương Tửu giải bày tâm sự:« Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa ». Ông qui tội cho số lãnh đạo văn nghệ :« Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta yểm tất cả tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn. Một số văn nghệ sĩ non gan… biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng hờn oán và uất ức….». 

Giải thích của Đảng

Trong một bức thư gửi đến giới nghệ sỹ và trí thức vào năm 1951, Hồ Chí Minh viết rõ rằng “Thực tế không có nghệ thuật vị nghệ thuật, không có nghệ thuật đứng trên giai cấp, không có nghệ thuật tách rời hoặc độc lập với chính trị. Văn học và nghệ thuật vô sản là một phần của toàn bộ lý tưởng đấu tranh cách mạng của giới vô sản”.

Tiếp theo, Tố Hữu nhắc nhở văn nghệ sĩ như sau:“Mỗi văn nghệ sĩ lại phải tự trả lời dứt khoát: ủng hộ hay phản đối đường lối văn nghệ của chủ nghĩa Mác–Lênin, đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh, phục tùng chính trị, theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và phục tùng sự lãnh đạo của Đảng”.

Còn đối với giới trí thức, trong buổi đối chất trước toà án Đảng, người hỏi cung Nguyễn Mạnh Tường nói rõ :“Đồng chí không thể không biết những gì đang chờ đợi. Nhà Nước chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của trí thức. Đó là thái độ theo đúng đường lối chính thống, tin vào Đảng, trung thành với Đảng, suy nghĩ, cảm nhận, hành động, theo chiều hướng và cung cách mà các cấp lãnh đạo đã quy định ».

Đàn áp[2]

Sau khi đi sang Trung Quốc học tập chính sách đàn áp phe hữu, Tố Hữu áp dụng chính sách của Mao Trạch Đông đối với các nhân vật chính của Nhân Văn Giai Phẩm bằng cách: Đi học tập cải tạo, bị cầm tù, bỏ đói, cô lập, cắt hộ khẩu, trục xuất khỏi Đảng[3]

 Đi cải tạo. Ngày 22/8/58: Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác… đi lao động cải tạo ở Chí Linh.

Phạt tù. Nguyễn Hữu Đang, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Phùng Cung bị giam 12 năm tù.

Bỏ đói. Thi sĩ Hữu Loan[4], nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường[5], v.v,

Đến thời « cởi trói » văn hóa năm 1986, chính phủ cộng sản trao giải thưởng Hồ Chí Minh cho một số nhân vật chủ chốt Nhân văn giai phẩm. Đây là hành động chính thức âm thầm nhìn nhận :

Sai lầm của chính sách nghệ thuật theo hiện thực xã hội chủ nghĩa : Phục vụ chính trị, nông công binh, phục tùng Đảng,

Cưỡng áp văn hóa xã hội của Đảng để tiêu chuẩn hóa văn hóa của cả dân tộc Việt đã đưa đến hậu quả là sư thất bại của đội quân văn hóa của Tố Hữu kéo theo sư sụp đổ văn hóa XHCN. 

—        

[1] Lê Hoài Nguyên cho biết: “Số người gọi là tham gia Nhân văn giai phẩm tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, do tác giả (LHN) thống kê được gồm khoảng 170 người

[2] Vụ án Nhân văn giai phẩm tượng trưng cho sự « đàn áp tự do tư tưởng, tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, áp bức tư tưởng, quyền uy bất minh, nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ, nhận đúng điều mà mình cho là sai, yêu cái mà mình ghét, ca tụng những điều mình phản đối. Văn hóa giả tạo, phục vụ chính trị. mệnh lệnh, công thức, khinh miệt quần chúng »

[3] Lê Hoài Nguyên cho biết: “Số người gọi là tham gia Nhân văn giai phẩm tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, do tác giả (LHN) thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người ». 

[4] Hữu Loan (1916 –2010). Thi sĩ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó bị quản thúc tại địa phương. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa đẩy xe cút kít đi kiếm củ, thồ xe chở đá độ nhật và nuôi cả gia đình

[5] Nguyễn Mạnh Tường (1909 – 1997) là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Năm 23 tuổi (1932) ông đỗ liên tiếp hai bằng Tiến sĩ tại Pháp, , ông hoàn toàn bị ly khai, không được tiếp xúc với người ngoài, không được dạy học, không cả dạy tư, rơi vào cảnh đói rét, bệnh tật… Trước toà án Đảng. người hỏi cung nói:“Đồng chí không thể không biết những gì đang chờ đợi. Nhà Nước chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của trí thức. Đó là thái độ theo đúng đường lối chính thống, tin vào Đảng, trung thành với Đảng, suy nghĩ, cảm nhận, hành động, theo chiều hướng và cung cách mà các cấp lãnh đạo đã quy định. » được kể lại trong cuốn hồi ký của ông: Un excommunié (Kẻ bị khai trừ), Quê Mẹ, Paris, 1992.

Bài 6. Văn học dân gian

February 10, 2022

Văn học nước ta bao gồm hai bộ phận chính: Văn học thành văn và văn học dân gian. Văn học thành văn tồn tại dưới hình thức văn bản cố định, gắn liền với văn hoá ký tự và phong cách cá nhân. Văn-học dân-gian chủ yếu được truyền miệng từ người này qua người khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Tự ngàn xưa, cổ nhân đã dạy rằng muốn hiểu bản chất của một chế độ, hình ảnh một thời lịch sử  thì chỉ cần xét tinh thần, tình cảm của người dân sống trong chế độ và ở thời kỳ đó được phản ánh qua thơ, nhạc, ca dao, tục ngữ lưu truyền trong dân gian.

Mang phong cách thể loại và phong cách địa phương, văn-học dân-gian thể hiện rõ rệt tâm tư chung của thời đại và thực sự là những tiếng nói của đám đông, của quần chúng vô danh và thầm lặng.

Việc dùng văn hóa dân gian để phẩm định bản chất của văn hóa XHCN sẽ gặp vấn đề là một mảng lớn văn hóa dân gian không phải do quần chúng vô danh sáng tác mà lại do các văn công cộng sản áp dụng phương pháp “bình cũ rượu mới” có nghĩa nội dung là ca tụng Bác và Đảng (rượu mới) để vào bình cũ (ca dao, vè, vọng cổ …) giả dạng dân gian sáng tác, thí dụ như :

Ca dao, câu vè ca tụng Bác và Đảng,

sáng tác” rất nhiều bài dân ca với làn điệu mỗi vùng để cổ võ văn hóa XHCN. Chủ yếu là các làn điệu chèo và ca trù… ở Bắc Bộ; các làn điệu hò, ví… ở Trung Bộ và các làn điệu hò, lý, vọng cổ… ở Nam Bộ.

Các văn công bắt chước dân chúng xử dụng dân ca trong sáng tác âm nhạc tuyên truyền, thường dưới 3 dạng chính.

Dạng thứ nhất là soạn lời mới như ca tụng Hồ Chí Minh, đảng cộng sản … lồng vào làn điệu dân ca của mỗi miền.

Dạng thứ hai là dùng một làn điệu dân ca nào đó rồi cải biến, hoặc xử dụng chất liệu cách mạng XHCN trong làn điệu ấy làm chủ đề âm nhạc để sáng tác.

Dạng thứ ba là xử dụng một làn điệu dân ca không rõ rệt của một làn điệu cụ thể nào nhưng vẫn nghe phảng phất, thoang thoảng hương sắc dân ca của một vùng miền cụ thể trên đất nước Việt Nam. Trong khi sáng tác, văn công khéo léo ca tụng cách mạng XHCN theo âm hưởng dân ca một vùng miền nào đó để ca ngợi công ơn to lớn và đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh trong những chương trình dân ca trên sóng phát thanh – truyền hình trung ương và địa phương. Dưới đây là các làn điệu dân ca được phổ biến nhiều (chèo, vọng cổ, ca dao) của văn hóa XHCN.

Làn điệu dân ca miền Bắc

Các bài hát chèo ca tụng:

– Hồ Chí Minh: Mừng sinh nhật Bác 19/5, Quê hương ơn bác, Mùa thu nhớ Bác, Nhớ Bác kính yêu… Hương sen dâng Bác,

– Đảng: Lời ca dâng Đảng, Hát chèo về Đảng, Lời ca mừng Đảng, mừng xuân, Miền quê ơn Đảng, Niềm tin có Đảng dẫn đường, Nghĩa Đảng tình dân.

Một số rất ít bài có làn điệu ca trù, hát xẩm ca tụng bác và đảng thí dụ: Xẩm tiếp bước theo Đảng.

Làn điệu dân ca miền Nam

Có rất nhiều bài vọng cổ ca tụng Hồ Chí Minh và Đảng, thí dụ như: Lời ca dâng Bác, Về thăm quê Bác, Nhớ mãi ơn Người, Miền Nam mong Bác, Ơn Đảng, Bác ơi, thương nhớ nào nguôi …

Ca dao

Ca dao là một bài thơ ngắn (thường là lục bát) từ hai câu trở lên do một người làm ra, rồi qua miệng từng người, dần dần được sửa đổi (một cách ngẫu nhiên) cho đến khi được hoàn chỉnh, tức là đã phản ánh trung thực tâm lý, tình cảm quần chúng đối với một cá nhân (quan viên trong làng xã, vua quan) hoặc đối với một sự kiện lịch sử.

Ca dao thực sự là những tiếng nói “tình cảm” của đám đông, của quần chúng vô danh và thầm lặng. Vì vậy mà cổ nhân đã dạy rằng là muốn tìm hiểu bản chất một ông quan, ông vua thì chỉ cần xét tinh thần của người dân sống dưới sự cai trị của ông quan đó. Tuy nhiên, làm thế nào để biết được tinh thần người dân? Tinh thần người dân luôn luôn được phản ánh qua thơ, nhạc nhất là ca dao lưu truyền trong dân gian.

Trong văn hóa XHCN, có 2 loại ca dao: ca dao của nhân dân và ca dao của chính quyền tạo ra. Làm sao phân biệt?

1) Ca dao của nhân dân. Từ xưa đến nay, trong chính trị, ca dao là tiếng nói tình cảm của đa số thầm lặng bị áp bức để chỉ trích, ta thán, châm biếm chua cay có khi trở thành tục tĩu về sự bạo ngược của chế độ như vài thí dụ sau:

Đi làm hợp tác hợp te
Không đủ miếng giẻ mà che cái l**

Ngày xưa tem phiếu vải thô,
Em mặc không đủ, Bác Hồ lòi ra.

2) Ca dao sáng tác bởi văn công của chế độ. Các câu ca dao này được nhận diện dễ dàng bởi 2 dạng sau:

Dạng ca tụng lãnh tụ và đảng với mục đích chính là tuyên truyền,

Dạng có tên tác giả dưới câu ca dao, bài vè.

Theo truyền thống sáng tác văn học dân gian, tác giả của ca dao, bài vè chính là dân gian. Một bài thơ hay câu vè có ghi tên tác giả thì không được coi là ca dao hay vè. Trái lại, theo quan niệm của văn hóa XHCN thì cần phải ghi tên tác giả của câu ca dao hay vè để ghi công với Đảng. Vì vậy mà trong cuốn “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” đã tái bản đến 10 lần, nhà văn khả kính Vũ Ngọc Phan đã cẩn thận ghi tên tác giả của từng bài ca dao, bài vè trong phần “Ca dao chống Mỹ cứu nước”, với nhiều câu vè ca ngợi bác và đảng, dài đến 40 trang sách, để thỏa mãn yêu cầu của những người lãnh-đạo đảng[1].

Từ năm 1975, sáng tác văn nghệ phục vụ văn hóa XHCN mỗi ngày một nghèo nàn dần rồi biến mất? Nếu đặt câu hỏi tại sao thì chỉ cần đọc lại lời chỉ đạo văn hóa của Hồ Chí Minh và Trường Chinh sẽ tìm thấy câu trả lời.

Hồ Chí Minh nói: “Văn hóa mới là văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân”.
Trường-Chinh chỉ đạo mục đích sáng tác là: “Thắng địch, giữ nước”.

Trong nhiều năm chiến tranh chống Pháp và xâm chiếm miền Nam, các lời chỉ đạo trên là yếu tố gợi hứng cho mọi giới văn nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa. Từ 1975, chiến tranh xâm lăng miền Nam đã chấm dứt thì yếu tố nào sẽ cổ động, gợi hứng cho sáng tác văn hóa? Trong khi chờ đợi câu trả lời của Đảng thì mục đích của văn hóa “Thắng địch, giữ nước” đi dần vào quên lãng và toàn dân đã quay về văn hóa cổ truyền.

[1] Vũ Ngọc Phan, Vũ Ngọc Phan toàn tập, NXB Văn Học, Hà Nội, 2010

https://hungviet-vhr.org/chuyen-de/van-hoa-xhcn-tai-viet-nam/page/3/


Tags: , , ,

Comments are closed.