Thực tế về Quan hệ Vợ Chồng Vùng Thôn quê – Tiểu Thạch Nguyễn văn Thái, Ph.D.


Trong một bài trước, bài “Quan niệm của Người Đàn bà Dân dã về Quan hệ Vợ Chồng”, chúng tôi có đề cập đến những giá trị nhân bản mà người đàn bà dân dã mang lại như tình yêu, nhân nghĩa hơn là tiền của, thuỷ chung, và sự hoà thuận giữa vợ chồng là những nền tảng cho sự bền vững trong quan hệ vợ chồng. Và sự bền vững này đã từng được thực hiện ở vùng thôn quê. Tuy nhiên, phố thị hay những vùng tiếp giáp phố thị, môi trường sinh sống của giới trung lưu, thượng lưu bao giờ cũng là một sự quyến rũ đối với người dân nghèo ở vùng thôn quê. Những gia đình ở vùng thôn quê nghèo khổ, trong ước vọng vươn lên, thường gả con gái cho những gia đình khá giả, giàu có, danh gia vọng tộc, hay quan quyền. Những gia đình này, không ít thì nhiều, có học thức và đa số chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo dục Khổng giáo Tống Nho mà ảnh hưởng đã tạo nên (1) vai trò độc tôn của người chồng và vai trò nhỏ bé và nô thuộc của người vợ trong gia đình, và (2) cảnh người vợ hầu như chỉ là kết quả của một sự đổi chác mang tính vật chất và phương tiện chứ không phải là kết quả của tình yêu, như người đàn bà dân dã quan niệm.

Trong bối cảnh này, người vợ thường phải làm việc vất vả, một phần là để trả nợ cho sự đổi chác việc được làm vợ của giai cấp trung lưu hay thượng lưu, phần khác là để thể hiện sự quy phục vai trò thấp bé đã từng bị áp đặt lên người đàn bà trong nấc thang hệ đẳng của Khổng giáo Tống Nho.

Vô duyên, vô phúc múc phải gái làng Bồng

Ăn cơm gà gáy, ngủ với chồng nửa đêm.

Nửa đêm ân ái cùng chồng

Nửa đêm về sáng, gánh gồng ra đi.

Chàng ơi! Có thương vợ không?

Để vợ đi cấy đã còng cả lưng.

Em nay đi cấy đồng sâu

Dưới chân đỉa cắn, trên đầu nắng chang

Chàng ơi! Có thấu chăng chàng

Một bát cơm vàng, biết mấy công lênh.

Một mình lo tảo, lo tần

Lo phần sưu thuế, lo phần chồng con.

Nhà khó, cậy vợ hiền; nước loạn, nhờ tướng giỏi.

Chồng nợ, vợ phải trả.

Công nợ thiếp trả cho chàng

Xin đừng lên thác, xuống hàn* nắng mưa.

(Hàn: chỗ nước chảy mạnh, bên dưới có lườn đá ngầm)

Tháng Hai cho chí tháng Mười

Năm mười hai tháng, em ngồi em suy

Vụ chiêm, em cấy lúa di

Vụ mùa, lúa dé, sớm thì ba trăng

Thú quê rau cá đã từng

Gạo thơm, cơm trắng chi bằng tám xoan

Việc nhà, em liệu lo toan

Khuyên chàng học tập cho chuyên kẻo mà.

Vì chàng thiếp phải ngủ ngồi

Nghĩ như thân thiếp, tìm nơi mà nằm.

Một ngày ba trận trèo đèo

Vì ai vú xách, lưng eo hỡi chàng!

Một ngày ba trận trèo non

Lấy gì mà đẹp mà giòn, hỡi anh!

Ngoài công việc cực nhọc đóng góp vào việc phát triển kinh tế cho gia đình nhà chồng, người vợ còn phải hằng ngày lo săn sóc, phục vụ ông chồng từng cái ăn, cái mặc, và ngay cả phục vụ những nhu cầu tâm lí cho chồng:

Chàng ơi! Chớ bực sầu tư

Khi xưa có mẹ, bây chừ có em.

Trời mưa thì mặc trời mưa

Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi

Chồng tôi đi chơi đã có nón đội

Chồng tôi đi hội đã có dù che.

Nhịn miệng đãi khách đường xa

Cũng là của để chồng ta ăn đường.

Chàng đi đưa gói em mang

Đưa dù em vác cho chàng đi không.

Chè Ô Long nấu nước ấm đồng

Để vô bình tích thuỷ đãi đằng lang quân.

Đốt than nướng cá cho vàng

Đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi

Phòng khi có khách đến chơi

Cơm ăn, rượu uống cho vui lòng chàng.

Ai kêu, ai hú bên sông

Tôi đang nấu nướng cho chồng tôi ăn.

Ở làm ri đâu cho trọn nghĩa vợ chồng

Đổ mồ hôi, em chặm; ngọn gió lồng, em che.

Ai kêu léo nhéo bên sông

Tôi đương vá áo cho chồng tôi đây

Anh đi làm thợ nơi nao

Để em gánh đục, gánh bào đi đưa

Trời nắng cho chí trời mưa

Để em cởi áo che mưa cho chàng.

Thuyền quyên sắm sửa cho chồng

Một bộ ăn chơi: cái quần cát bá, cái ô cánh dơi, cái khăn nhiễu Tàu

Khăn nhiễu Tam Giang anh quấn lên đầu

Lược ngà búi tóc, mọi màu cho sang

Chân anh nhịp bước khoan khoan

Dạo chơi kẻ chợ, vẻ vang trăm chiều

Khăn huê thiếp tô nhuộm mùi điều

Hỏi chàng rằng đã mĩ miều hay chưa?

Chưa vừa, thiếp tôi sắm cho vừa

Võng hai lá thắm, ngựa thừa nước hay

Sắm sanh thực lắm thứ hay

Ống thuốc bằng ngọc, quạt tay bằng ngà

Sắm cho anh bạc bảy, thau ba

Bao diêm, thuốc lá, quạt ngà, thong dong

Cho bõ cái công con gái thuyền quyên sắm sửa cho chồng

Đũa sơn, bát sứ, chậu thau đồng rửa tay

Dạo chơi khắp hết đông, tây

Về nhà bàn cờ gỗ trắc, chơi ngay trong mùng

Bốn bên, bốn dải kim tùng

Ở giữa vải vóc da đồng vạn vân

Một, Chạp, thiếp tôi sắm cho chàng một lồng ấp với chiếc chăn bông

Cái áo chàng mặc tôi nhuộm lần trong những bốn mùi

Thứ nhất nhuộm lấy da trời

Nhì nhuộm hoa liễu, ba thời hoa hiên

Bốn nhuộm màu lục đẹp bền

Bốn mùa sặc sỡ, đừng quên công người

Ăn chơi cho đủ mọi mùi.

Những người ở vùng thôn quê, trong ước vọng vươn lên, thường gả con gái vào những gia đình giàu có. Những tưởng lấy được người chồng giàu là sung sướng, hạnh phúc, nhưng trong thực tế người đàn bà dân dã đã thất vọng và đau khổ vì mình bị sử dụng như là một phương tiện kinh tế cho nhà chồng chứ không phải là đối tượng của tình yêu.

Thân em mười sáu tuổi đầu

Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người

Nói ra sợ chị em cười

Năm ba chuyện thảm, chín mười chuyện cay

Tôi về đã mấy năm nay

Buồn riêng thì có, vui vầy thì không

Ngày thì vất vả ngoài đồng

Tối về thời lại nằm không một mình

Có đêm thức suốt năm canh

Rau heo, cháo chó loanh quanh đủ trò

Ai về nhắn mẹ cùng cha

Lấy chồng nhà có, khổ ba bảy đường

Đêm nằm lưng nỏ bén giường

Mụ gia đã xốc vô buồng kéo ra

Bảo lo con lợn, con gà

Lo xong cối lúa, quét nhà, nấu cơm

Ốm đau thì mụ nỏ thương

Mụ hành mụ hạ, đủ đường khốn thân

Tối về bưng bát cơm ăn

Mụ cầm cái đọi mụ quăng vô người

Lấy chồng giàu, khổ lắm chị ơi!

Ai ơi, phải nghĩ trước sau

Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi

Làm thì xem chẳng ra gì

Làm tất làm tả nói thì điếc tai

Đi ngủ thì hết canh hai

Thức khuya dậy sớm mình ai dãi dầu

Sớm ngày đi cắt cỏ trâu

Trưa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy!

Hết mẹ rồi lại đến thầy

Gánh cỏ có đầy, vẫn nói rằng vơi

Nói thì nói thật là dai

Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều

Phận em là gái nhà nghèo

Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng

Nói ra đau đớn trong lòng

Chịu khổ, chịu nhục suốt trong một đời.

Cu cu mà đỗ cửa quyền

Lấy chồng chưa mãn ba niên lại về.

Em tham giàu lấy thằng bé tí tị tì ti

Làng trên xã dưới thiếu gì con trai to

Em đem thân cho thằng bé nó giày vò

Mùa đông tháng rét nó nằm co trong lòng

Tưởng đến cơn, em bồng đức ông chồng lên

Nó còn niên thiếu chẳng nên cơm cháo gì

Nó cứ ngủ, đêm nó ngáy khì khò

Để nó lên bụng, thì thì rằng: thôi!

Vì nghèo khổ nên cha mẹ thường gả con gái cho gia đình giàu có, mong con thoát được cảnh bùn lầy nước đọng. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, con đã không được sung sướng mà còn phải chịu cảnh thân xác bị đoạ đày. Hơn nữa, để có được cái tiếng giàu có hay cái danh vọng quan quyền hão huyền, nhiều người con gái son trẻ lắm lúc đã phải lấy một ông chồng già nua, tuổi tác đáng làm cha, làm ông của mình .

Bữa cơm múc nước rửa râu

Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm

Đêm đêm dắt cụ đi nằm

Than thân phận gái ôm lưng lão già

Ông ơi! Ông buông tôi ra!

Kẻo ai trông thấy, người ta chê cười.

Vô duyên lấy phải ông già

Ra đường bạn hỏi rằng “cha” hay “chồng”

Nói ra đau đớn trong lòng

Chính thức là chồng, có phải cha đâu

Ngày ngày vác cối giã trầu

Tay thời rót nước, tay hầu cái tăm

Đến đêm đưa lão đi nằm

Thiếp đặt lão xuống, lão nằm trơ trơ

Hỡi ông lão ơi! Ông trở dậy cho thiếp tôi nhờ

Để thiếp tôi kiếm chút con thơ bế bồng

Nữa mai người có, thiếp không

Xấu hổ với chúng với bạn, cực lòng mẹ cha.

Gà tơ xào với mướp già

Vợ hai mươi mốt, chồng đà sáu mươi

Ra đường chị diễu, em cười

Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng

Đêm nằm tưởng cái gối bông

Giật mình gối phải râu chồng nằm bên

Sụt sùi tủi phận, hờn duyên

Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con.

Để đỡ tủi phận, người đàn bà có lúc đã chua chát vinh danh thân phận có chồng già bằng câu ca dao mỉa mai sau đây:

Có duyên, lấy được chồng già

Ăn cơm bỏ cháy, ăn gà bỏ xương.

Ngoài ra, thân phận làm vợ trong gia đình cổ truyền thuộc giai cấp trung lưu, thượng lưu, quan quyền còn có những cảnh khổ khác nữa như thường xuyên phải xa chồng, phải làm lụng vất vả để nuôi chồng đi ăn học nơi xa trong nhiều năm, thường là ở kinh kì, và chờ đợi người chồng thi đỗ mới “vinh quy, bái tổ” trở về làng. Không đỗ thì chồng cũng làm thầy đồ dạy dỗ con em trong làng, cũng có được tiếng thơm. Ra đi, người chồng trao việc săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà của mình cho vợ như là một trách nhiệm đương nhiên mà người vợ phải lãnh nhận.

Áo trắng em khâu chỉ tơ

Khuyên chàng đi học, thiếp chờ ba năm

Phòng khi dạ nhớ hỏi thăm

Hỏi chàng đi học xa xăm dường nào

Muốn cho một chốn gần nhau

Em gửi thư vào khuyên học cho hay

Bút nghiên cất nhắc liền tay

Đêm ngày chăm học nào ai chê cười.

Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân

Nay anh học gần, mai anh học xa

Lấy anh từ thuở mười ba

Việc cửa, việc nhà anh bỏ cho tôi.

Anh nay đương lúc còn trai;

Anh đi học tập ở nơi kinh kì.

Chiếu vua mới mở khoa thi:

Anh sắm nghiên bút vào thi đỗ liền.

Khoa trước thời đỗ giải nguyên;

Khoa sau tiến sĩ đỗ liền hai khoa.

Vinh quy bái tổ về nhà;

Ăn mừng khai hạ có ba bốn ngày.

Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân

Nay anh học gần, mai anh học xa

Tiền gạo thì của mẹ cha

Cái nghiên, cái bút thật là của em.

Ai đi đợi với tôi cùng

Tôi còn sắm sửa cho chồng đi thi

Chồng tôi quyết đỗ khoa này

Chữ tốt như rắn, văn hay như rồng

Bõ khi xắn váy quai cồng

Cơm niêu nước lọ nuôi chồng đi thi.

Em ơi, em ở cho ngoan,

Một hai năm nữa, lo toan cửa nhà.

Em ơi, đừng phụ mẹ già,

Một vài năm nữa, lo nhà cho anh.

Em thời buôn bán cho lanh,

Để anh chăm chỉ học hành cho thông.

Mai sau anh đậu quận công,

Em làm chính thất, xem trông cửa nhà.

Trước thời nên thất, nên gia,

Sau thời trả nghĩa mẹ cha sinh thành.

Nếu không phải xa chồng vì chồng đi ăn học nơi xa thì người vợ cũng thường phải xa chồng vì chồng đi buôn bán, làm ăn ở nhiều nơi xa nhà, giao trách nhiệm săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ của mình lại cho người vợ đảm đương trong sự cô đơn, không người tâm sự, giữa khung cảnh xa lạ của nhà chồng.

Nhà anh chỉ có một gian:

Nửa thì làm bếp, nửa toan làm buồng.

Anh cậy em săn sóc trăm đường;

Để anh buôn bán, chảy chương thông hành.

Còn chút mẹ già, nuôi lấy cho anh;

Để anh buôn bán, thông hành đường xa.

Liệu mà thờ kính mẹ già;

Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.

Dù no, dù đói cho tươi;

Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan.

Cho anh đành dạ bán buôn.

Gió đưa bụi chuối sau hè

Chàng Nam, thiếp Bắc, làm giàu ai ăn?

Sự kiện xa chồng vì chồng phải đi học ở chốn kinh kì hay xa chồng vì chồng phải đi buôn bán làm ăn nơi khác chỉ đem lại sự buồn bã, cô đơn, và nhớ mong vì thiếu vắng bóng chồng. Nhưng ngoài sự buồn bã, cô đơn, và nhớ mong, người đàn bà còn rất sợ hãi khi xa chồng vì chồng phải đi lính, đi lính để dẹp giặc cho nhà vua, sống chết bất cứ lúc nào, nhất là trong thời kì Pháp thuộc vào khoảng Đại chiến thứ II, người Pháp mộ lính Việt sang Pháp để đánh Đức, không biết bao giờ trở về. Hoàn cảnh này ảnh hưởng đến mọi tầng lớp xã hội: trung lưu, thượng lưu, và nông dân.

Theo nhau cho trọn lời vàng đá

Không hay chừ kẻ Á, người Âu

Gối loan chẳng đặng giao đầu

Con chim bơ vơ núi Ngự, con cá thảm sầu sông Hương.

Anh ra đi Tây, bỏ lại năm sào ruộng sâu, một sào ruộng cạn

Ruộng sâu bị hạn, ruộng cạn sâu keo ăn

Lấy chi nuôi thầy với mẹ quanh năm

Đêm năm canh nằm nghĩ lại, ruột tằm héo hon.

Xúp lê một, còn than còn thở

Xúp lê hai, còn đợi còn chờ

Xúp lê ba, tàu ra biển bắc

Tay vịn song sắt, miệng chắt lưỡi, kêu Trời

Chồng Nam, vợ Bắc, sống đời được đâu!

Tài trai sinh phải thời này

Bên quan, bên giặc, bên Tây, bên Tàu

Gầm trời chưa dễ yên đâu

Có quan Chánh Lĩnh đứng đầu cầm quân

Anh đi khắp thiên hạ xa gần

Đâu đâu cũng phải một lần gian nan

Bên Tây có chiếc tàu sang

Sinh ra khố đỏ, quần vàng, áo thâm

Cho nên anh chịu âm thầm

Vai vác khẩu súng, tay cầm bình toong*

Ra đi, sông cạn, đá mòn

Ra đi, thương nhớ vợ con ở nhà

Việc Tây, anh phải trẩy xa

Khi ở Hà Nội, khi ra Hải Phòng

Nói ra đau đớn trong lòng

Vợ con có biết vân mòng là đâu!

Việc Tây như lửa trốc dầu

Cho nên anh dặn trước sau một lời.

(Bình toong: bidon=bình bằng nhôm đựng nước uống của lính)

Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non

_Nàng về nuôi cái cùng con

Cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng.

Vợ chồng mới cưới hôm qua

Hôm nay đi lính, xót xa muôn phần

Vợ chồng chưa kịp ái ân

Nhà vua bắt lính, lấy quân ở làng.

Con xa mẹ, thèm ăn, khát bú

Vợ xa chồng đi thú biệt li

Đêm nằm ấp lấy hài nhi

Con hời, con hỡi, cha con đi phương nào

Con thơ anh bỏ cho nường

Mẹ già đầu bạc, phận nường long đong

Xót xa như muối đổ lòng

Chịu nhục, chịu nhã cho xong một bề

Lấy ai cày ruộng chân quê

Mà lệnh chầu về bắt lính xứ Thanh

Không đi thì dạ không đành

Đi ra mưa nắng tập tành quản bao

Ngang lưng thì thắt cái bao

Tay vác khẩu súng, con dao nạp rừng

Lính anh lính mới chưa từng

Tay vác khẩu súng, nửa mừng nửa lo

Gánh nặng chả ai đỡ cho

Cơn nặng thì ít, cơn lo thì nhiều

Vua ban cái áo mĩ miều

Nửa nhuộm màu điều, nửa nhuộm màu xanh

Tiếc cho bác mẹ sinh thành

Đẻ trai thời loạn, uổng công trình lắm thôi.

Cảnh xa chồng vì chồng đi ăn học ở chốn kinh kì, xa chồng vì chồng đi buôn bán làm ăn ở nơi xa, xa chồng vì chồng phải đi lính dẹp giặc cho nhà vua hay đi lính mộ cho Tây để đánh giặc Đức Quốc Xã ở tận châu Âu là những lí do xa cách mà người đàn bà biết được. Còn có rất nhiều cảnh xa chồng mà người vợ chẳng hề biết lí do tại sao, nhưng phải chịu đựng vì tính độc đoán của người đàn ông trong bối cảnh văn hoá cổ truyền được áp đặt lên người đàn bà, để lại cho người đàn bà một sự đau khổ, buồn tủi trong cô quạnh.

Trông chồng mà chẳng thấy chồng

Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.

Đêm nằm mà bỏ tay sang

Giường không, chiếu lạnh, hỏi chàng đi mô?

Chồng tôi đi đã ba đông

Hẹn về năm ngoái, sao không thấy về.

Giang sơn thiếp gánh một mình

Chàng đi hồ dễ thấu tình thiếp chăng!

Chịu oan một tiếng có chồng

Vắng vẻ loan phòng, có cũng như không.

Mẹ trông con ra ngồi cầu Ái Tử

Vợ trông chồng lên đứng núi Vọng Phu

Mỏi mòn bóng xế trăng lu

Khác chi con ve kêu mùa hạ, biết mấy thu nguôi lòng.

Anh đi, em một ngó chừng

Ngó sông, sông rộng; ngó rừng, rừng sâu.

Đi đâu để nhện giăng mùng

Năm canh thiếp chịu lạnh lùng cả năm.

Đi mô mà chẳng thấy về

Con thơ vợ dại không về viếng thăm.

Đi mô mà nỏ thấy về

Thắp đèn em đợi, dựa kề năm canh.

Đi mô nỏ biết đi mô

Thắp đèn mà đợi, tim khô hao dầu.

Đôi ta như chim từ quy1

Ngày thì nỏ chộ2, đêm đi kêu sầu

Thỉnh thoảng bên nhau, mỗi con một núi

Kêu từ chập túi3 cho tới canh khuya

Sầu này biết để ai chia!

(1 chim từ quy: chim cuốc (đỗ quyên); 2 nỏ chộ: không thấy; 3 túi: tối )

Ngày ngày ra đứng bến sông

Hỏi thăm chú lái: nào chồng tôi đâu?

Anh đi ba bốn năm tròn

Để em giã gạo chày con một mình.

Anh đi đâu bỏ nhện giăng mùng

Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu.

Sao hỡi sao! Sao chưa có mọc

Sao mọc bên bắc, nước mắt bên đông

Biết thuở nao cho gặp mặt chồng

Đêm khuya em hoài vọng, nước mắt hồng tuôn rơi.

Anh đi đường ấy xa xa

Để em ôm ánh trăng tà năm canh

Nước non một gánh chung tình

Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng?

Anh ra đi, trong rương còn được hai đồng rưỡi

Côi tra* xuốc* đi xuốc lại còn một nạm* lúa dâu

Em ở nhà lấy chi mà cung thân, dưỡng tử cho trọn câu hiếu tình.

*Tra: vựa ở kế cận nóc nhà

*Xuốc: quét

*Nạm: nắm

Mây giăng trên ngọn non Vồng

Em nhớ thương chồng, đứng bến Châu Giang

Bến Châu Giang thuyền ngang, sóng ngược

Đỉnh non Vồng mây trước mây sau

Ai về có nhớ lời nhau…?

Mặc dù đối diện với thực tế là phải cật lực lao động cho gia đình chồng, phải thường xuyên xa cách chồng vì chồng đi học ở chốn kinh kì, vì chồng phải làm ăn xa, vì chồng đi lính để dẹp giặc cho nhà vua hoặc đi lính cho Tây để đánh quân phiệt Đức ở tận trời Âu, và ngay cả xa cách chồng mà không biết lí do tại sao, người đàn bà dân dã – một khi đã lấy chồng thuộc giai cấp giới trung lưu hay thượng lưu cổ truyền – vẫn tuân phục những giáo điều “tam tòng, tứ đức”, mà Khổng giáo đã áp đặt lên người đàn bà cả hằng chục thế kỉ, cộng thêm với ý thức hệ hệ đẳng “quân, sư, phụ” độc đoán của Tống Nho đã được áp dụng cho chính sách cai trị của nhà Nguyễn đòi hỏi sự sùng bái “quân vương”, thờ vua, thờ chồng. Trong bối cảnh văn hoá này, người vợ bị đặt vào tình trạng “vong thân”, bản ngã bị đánh mất, không làm chủ được bản thân, chỉ còn là một công cụ phục vụ quyền lợi của gia đình nhà chồng.

Phụ tuỳ, phu xướng, ấy là lẽ thường

Anh nói sao, em nghe vậy, cho vẹn đường ái ân.

Con cuốc kêu khắc khoải mùa hè

Làm thân con gái, phải nghe lời chồng

Sách có chữ rằng: phu xướng, phụ tuỳ

Làm thân con gái, lấy chồng xuất gia

Lấy em về thờ mẹ, kính cha

Thờ cha, kính mẹ, ấy là người ngoan.

Em nay khăn khắn một lòng

Muốn cho phu xướng, phụ tòng cùng nhau.

Lấy chồng, bắt thói nhà chồng

Đừng giữ thói cũ ở cùng mẹ cha.

Lấy chồng thì phải theo chồng

Thôi đừng theo thói cha ông nhà mình.

Ghe bầu trở lái về đông

Làm thân con gái: thờ chồng, nuôi con.

Có con gây dựng cho con

Có chồng, gánh vác nước non nhà chồng.

Sống quê cha, ma quê chồng.

Có chồng thì phải theo chồng

Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo

Có chồng thì phải theo chồng

Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui.

Con ông Đô Đốc quận công,

Lấy nó làm chồng cũng phải gọi bằng anh.

Con vua lấy thằng bán than,

Nó đem lên ngàn cũng phải đi theo.

Con quan Đô Đốc, đô đoài,

Lấy thằng thuyền chài cũng phải luỵ mui.

Có chồng thủ phận thủ duyên,

Trăm con bướm đậu cửa quyền xin lui.

Ngoài việc hoàn toàn trao thân phận cho nhà chồng, quy phục lối sống của nhà chồng và uy lực của người chồng, người đàn bà còn quyết tâm chung thuỷ với chồng. Thực ra, với quan niệm sẵn có của người đàn bà dân dã về quan hệ vợ chồng phải là kết quả của tình yêu thì việc chung thuỷ với chồng không phải là một điều khó hiểu. Và cũng trong quan niệm về tình yêu, chung thuỷ chỉ là một hệ luận. Do đó, dù phải lao lực cực nhọc, dù phải thường xuyên xa cách chồng, dù phải hoàn toàn tuân phục mọi quyết định của chồng, người đàn bà vẫn hết một lòng chung thuỷ với chồng.

Trăm năm giữ vẹn chữ tòng,

Sống sao, thác vậy, một lòng mà thôi.

Có chồng thủ phận, thủ thân,

Nào ai tưởng tới mười phần đội ơn.

Em đây thủ tiết buồng lan,

Hồn về chín suối, còn mang tượng chồng.

Mặc ai một dạ đôi lòng,

Em đây thủ tiết, loan phòng đợi anh.

Thế gian, một vợ, một chồng

Chẳng như vua bếp, hai ông một bà.

Chồng rồi, bớt áo thay vai

Bớt màu trang điểm, kẻo trai nó lầm.

Chưa chồng, chơi đám, chơi đu

Chồng rồi, chẳng dám ngao du chốn nào.

Không chồng trông dọc, trông ngang

Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.

Có chồng, thủ phận, thủ duyên

Trăm con bướm đậu cửa quyền, xin lui.

Có chồng, thủ phận, thủ thân

Nào ai tưởng tới, mười phần đội ơn.

Chuồn chuồn đậu ngành mía mưng,

Em đà có chốn, xin đừng vãng lai.

Vườn hồng đã có người cai,

Xin anh chớ có vãng lai vườn hồng.

Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay.

-Ba đồng một mớ trầu cay,

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không.

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng, như cá cắn câu.

Cá cắn câu, biết bao giờ gỡ,

Chim vào lồng, biết thuở nào ra.

Có điều khó hiểu đối với những người sống trong thế hệ đương đại, nhất là ở những vùng phố thị, là người vợ, trong bối cảnh văn hoá cổ truyền, vẫn một mực chung thuỷ với chồng dù chồng có “trăng hoa”, có “năm thê, bảy thiếp”. Thực ra, ngay cả trong thời hiện đại, hiện tượng này không phải là hiếm. Người ta thường nghe câu tục ngữ rất thông dụng là: “Ớt nào là ớt chẳng cay, gái nào là gái chẳng hay ghen chồng”. Thế mà, trong bối cảnh văn hoá cổ truyền, người đàn bà vẫn khẳng quyết là:

Bất tham sanh, hề vô huý tử

Anh có hoang đàng, em giữ hiếu trung.

Trai năm thê, bảy thiếp; gái chính chuyên một chồng.

Chồng chung chồng chạ, ai khéo hầu hạ thì được chồng riêng.

Cũng trong bối cảnh văn hoá cổ truyền, để thể hiện quyền lợi giai cấp từng được chấp nhận như là quyền lợi đương nhiên của mình, người đàn ông khẳng quyết là sự giàu có, tài năng (đỗ đạt, làm quan, hay làm ăn thành đạt), là lí do chính đáng cho mình được quyền được “trai gái”, được quyền “hoang dàng”, và có nhiều vợ. Lấy nhiều vợ mới chứng tỏ mình là người đàn ông khôn ngoan. Trong lúc đó thì người vợ phải luôn luôn “chính chuyên một chồng”.

Trai làm nên, lấy năm, lấy bảy.

Trai làm nên, năm thê, bảy thiếp

Gái làm nên, thủ tiết thờ chồng.

Tài trai lấy năm, lấy bảy

Gái chính chuyên chỉ lấy một chồng.

Giai khôn lấy vợ lẽ.

Và quyền của người đàn ông còn bao trùm sự quyết định ngay cả trong việc ái ân giữa vợ chồng. Trong việc ái ân, người vợ phải chịu đóng một vai trò không khác gì vai trò của người đầy tớ trong nhà, khi nào chủ cho làm thì mới được làm, khi chủ muốn đuổi thì bị đuổi.

Làm tuỳ chủ, ngủ tuỳ chồng.

Một khía cạnh khác trong quan hệ vợ chồng là sự hoà thuận. Trong bài “Quan niệm của Người Đàn bà Dân dã trong Quan hệ Vợ Chồng”, chúng tôi có trình bày là sự hoà thuận giữa vợ chồng, theo quan điểm của người đàn bà dân dã, là một yếu tố cần có cho một gia đình hạnh phúc. Thực tế về quan hệ vợ chồng cho thấy là người đàn bà dân dã vẫn ca tụng, vinh danh, và thực thi sự hoà thuận. Tuy nhiên, điểm quan trọng cần lưu ý ở đây là mỗi khi có xung khắc trong gia đình thì người phải nhường nhịn, nghĩa là người chịu lép vế trong việc làm lành, luôn luôn là người đàn bà.

Chồng giận thì vợ bớt lời

Cơm sôi, lửa nhỏ, một đời không khê.

Cơm sôi, bớt lửa; chồng giận, bớt lời.

Chồng giận thì vợ làm lành.

Muốn cho trên thuận, dưới hoà

Chồng kêu, vợ dạ mới là gái ngoan.

Đang khi chồng giận, mình đi

Hết khi nóng giận, đến khi vui vầy

Ngãi nhơn như bát nước đầy

Bưng đi mà đổ, hốt rày đặng đâu.

Có lúc, để có được sự yên ổn trong gia đình, người vợ đã phải xã giao, lễ phép, đưa ra “cái mồi” cưới vợ bé cho chồng: 

Chồng giận thì vợ làm lành

Miệng cười chúm chím: thưa anh giận gì?

Thưa anh, anh giận em chi?

Muốn lấy vợ bé, em thì lấy cho.

Một sự thực phũ phàng khác là trong trường hợp người vợ không chịu nhường nhịn, không chịu lép vế làm lành trước, bất kể người chồng đúng hay sai, người chồng vẫn có quyền ung dung hành hung vợ mình:

Chồng tiến thì vợ phải lùi

Chồng tiến, vợ tiến thời dùi vào lưng.

Rượu say vì bởi men nồng

Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo.

Chồng giận thì vợ bớt lời

Chồng giận, vợ giận thì dùi nó quăng.

Trong truyền thống văn hoá Tống Nho, vai trò của người đàn bà thật quá nhỏ bé, bị người đàn ông coi không bằng giá trị của loài vật, hay chỉ như là một tiện nghi vật chất phục vụ quyền lợi kinh tế và dục vọng của mình. Người vợ có lúc bị so sánh với gái “làng chơi” hay với súc vật như “gà”, “chó”, “mèo”, “trâu”.v.v… Những từ ngữ xấu xa được gắn kết cho người vợ, hay thường được áp dụng cho heo (lợn) như cụm từ “nạ dòng” được áp dụng cho người đàn bà đã có con.

Vô phước, cưới vợ về làm đĩ

Có phước, cưới đĩ về làm vợ.

Một ngày là đĩ, ba ngày là vợ.

Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng

Một là sát chồng, hai là hại con.

Đít vồ, trôn vại, ăn hại chồng con.

Chân vò, đít vại, ăn hại chồng con.

Mua heo, chọn nái; mua gái, chọn dòng.

Mua trâu, xem vó; lấy vợ, xem nòi.

Gà luộc lại, gái cải giá.

Gà luộc hai lần.

Ngày xưa ta chửa lấy mày

Thời ta trải chiếu bàn tay cho ngồi

Bây giờ ta lấy được rồi

Chiếu chả cho ngồi, đất lại thả chông.

Trai tơ lấy phải nạ dòng

Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu.

Trai tơ, ơi hỡi trai tơ!

Đi đâu mà vội mà vơ nạ dòng.

Nạ dòng lấy được trai tơ

Đêm nằm mê mẩn như mơ được vàng.

Cưới gái nạ dòng mang gông vào cổ.

Hoặc người đàn bà bị xem như chỉ là một sự thiệt hại, một tổn thất kinh tế cho nhà chồng:

Lấy chồng, ăn hết của chồng

Ăn hết con mắt, khoét tròng con ngươi.

Gái phải lòng trai đem của về nhà

Trai phải lòng gái rỡ cột nhà đem đi.

Xưa nay ăn những của chồng

Mới có một đồng, đỏng đảnh ăn riêng.

Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn

Gái nuôi chồng ốm, lưng tròn cối xay.

Giá trị của người vợ cũng chẳng khác gì áo quần, cởi ra, mặc vào hay vất đi khi nào cũng được. Bản tính “người” của vợ đã bị chồng cướp đi mất hoàn hoàn. Người chồng có lúc biến người vợ thành một dụng cụ chỉ để chùi chân. 

Chồng chị, chị để trên bàn

Phòng khi đi chợ mua màn về che

Thân chị như cái chổi để đầu hè

Phòng khi mưa gió, đi về chùi chân.

Vợ mọn như chổi chùi chân.

Mất mẹ, mất cha thật là khó kiếm

Chớ đạo vợ chồng chẳng thiếu gì nơi.

Vợ chồng như áo bận vào cởi ra.

Vợ chồng như áo xỏ tay liền liền.

Anh em như thể chân tay

Vợ chồng như áo cởi ngay nên lìa.

Bình phong cẩn ốc xà cừ

Vợ hư, rẫy vợ, đừng từ mẹ cha.

Anh lấy em về thờ kính mẹ cha

Rồi sau coi sóc cửa nhà cho anh.

Gái nhìn lên, trai nhìn xuống.

Cách người đàn ông “nhìn xuống” người đàn bà như là một phương tiện, một công cụ đã cướp đi “tính người” của người vợ, và làm cho người chồng biến thái thành một tên cai ngục hung bạo, lúc nào cũng có thể hành hung vợ mình trong não trạng bạo dâm.

Ra đường sợ ma, về nhà sợ chồng.

Chê chồng trước đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.

Rừng xanh con cọp nó gầm

Hỡi cô chồng đánh la rầm xóm kia

Đầu đuôi bởi tại chuyện chi

Hay là bởi chuyện cô mi ve ông lái mành.

Vợ thời anh vẫn lòng thương

Nợ thời anh cứ đầu xương anh ghè.

Lấy anh, anh sắm sửa cho

Dùi đục cho sẵn, anh ghè đầu xương

Khi vui, anh gối đầu giường

Khi buồn, anh cứ đầu xương anh ghè.

Trai khôn tránh khỏi đòn quan, gái ngoan tránh khỏi đòn chồng.

Đánh vợ thì đánh sáng mai

Chớ đánh chiều tối không ai nằm cùng.

Cái cò là cái cò quăm

Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?

Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối, chả ai cho nằm.

Quan điểm của người đàn ông là giá trị của người vợ hoàn toàn do chồng ban phát cho. Không có chồng, người đàn bà không có một giá trị nào cả, chỉ là “da cái đồ”.

Có ông mới gọi là bà, không ông thì gọi là da cái đồ.

Gái có chồng như rồng có cánh.

Voi trên rừng không bành, không tróc

Gái không chồng như cóc cụt đuôi.

Gái có chồng như rồng có vây

Gái không chồng như cối xay chết ngõng.

Gái có chồng như sông có nước

Gái không chồng như lược gãy răng.

Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng

Chăn loan, gối phượng, không chồng cũng hư.

Em ngoan lấy phải chồng đần

Cho giỏi mười phần, ai biết rằng ngoan.

Do đó, người đàn ông phủ nhận tất cả những gì người vợ có thể mang lại cho mình và khẳng quyết là không bao giờ nhờ vợ dù trên thực tế vợ có giàu sang đi nữa cũng phải “ăn mày” chồng.

Trai tay không, chẳng ăn mày vợ

Gái trăm mẫu ruộng đợ, phải ăn mày chồng.

Thà ở xó chuồng heo còn hơn theo phía vợ.

Tay không chẳng thèm nhờ vợ.

Trai ở nhà vợ như chó nằm gầm chạn.

Nước nhờ phèn mới trong, gái nhờ chồng mới có.

Ở chuồng heo còn hơn theo quê vợ.

Trong một bài trước, bài “Quan niệm của Người Đàn bà Dân dã trong Quan hệ Vợ Chồng”, chúng tôi có trình bày là người đàn bà dân dã quan niệm là quan hệ vợ chồng phải là kết quả của tình yêu, của nhân nghĩa, của chung thuỷ, và của sự hoà thuận giữa vợ và chồng. Nhưng thực tế về quan hệ vợ chồng trong bối cảnh văn hoá cổ truyền của những thế kỉ trước cho chúng ta thấy là người đàn bà không có được một hoàn cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc như mình mơ ước mà trái lại phải đối diện với thực trạng lưu đày trong sự buồn tủi, lạnh lùng, và cô đơn miên viễn vì phải thường xuyên đơn độc lao động vất vả cho gia đình chồng. Ngoài công việc lao động, người vợ còn phải hằng ngày lo săn sóc, phục vụ chồng mình từng cái ăn, cái mặc; thường xuyên bị xa cách chồng vì chồng phải đi học xa nhiều năm, phải đi làm ăn, phải đi lính, và ngay cả xa chồng mà không biết lí do tại sao. Có lúc người con gái đang độ xuân xanh phải lấy một người đàn ông già nua, tuổi bằng tuổi cha ông của mình. Trước những nghịch cảnh như thế, người vợ vẫn một mực chung thuỷ với chồng dù chồng có trai gái, hoang đàng, hay lấy nhiều vợ. Đau khổ hơn nữa là trong cảnh gia đình mà người đàn bà ước muốn có được sự hoà thuận giữa vợ và chồng để có được hạnh phúc thì người đàn bà luôn luôn là người duy nhất phải nhường nhịn, chịu lép vế làm lành, chịu thiệt thòi để có được sự hoà thuận. Nếu người vợ không chịu nhượng bộ, nhường nhịn, làm lành thì người chồng thường hành hung người vợ. Hiện tượng bất công này bắt nguồn từ việc người đàn ông coi thường, xem rẻ giá trị của người đàn bà, đánh đồng giá trị của người đàn bà ngang hàng với gái “làng chơi”, với súc vật, hay với những phương tiện, công cụ vô tri chỉ đáng phục vụ cho quyền lợi và dục vọng của mình chứ không phải là đối tượng đáng trân trọng của tình yêu có thể đồng hành, đồng lao cộng khổ, với mình trong cuộc sống. Việc xem thường, coi rẻ giá trị của người đàn bà có nguyên nhân sâu xa, phát sinh từ ảnh hưởng của Tống Nho: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” [Một nam là có, mười nữ coi như không có gì] và “phu xướng, phụ tuỳ” [Chồng bảo thì vợ phải vâng] đưa đến cảnh “chồng chúa, vợ tôi”. Đa số những người sống trong thời hiện đại đều nhận thấy rõ sự bất công phi nhân của xã hội cổ truyền trong quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, những sự kiện bất công này vẫn còn rất phổ biến trong xã hội hiện đại ở rất nhiều nơi trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, nhất là ở những vùng phố thị. Cho nên hiện thực này là một cảnh báo cấp thiết cho những người có trách nhiệm giáo dục trẻ em, nhất là các bậc phụ huynh cần thực hiện một chương trình giáo dục gia đình thể hiện tính nhân bản và công bằng trong quan hệ lứa đôi và vợ chồng. Tuy nhiên, chương trình giáo dục gia đình hiệu quả nhất không phải chỉ là giáo huấn bằng lời nói mà phụ huynh nhất thiết phải có một lối sống phản ánh khuôn thước chuẩn mực để cho con cái noi gương. Nhà bác học Katelin Karikó, người nhận giải Nobel 2023 về sinh học, đã từng khuyến cáo và chứng minh bằng đời sống của chính mình là khuôn mẫu sống của cha mẹ là mô hình giáo dục con cái hiệu quả nhất.

Tiểu Thạch Nguyễn văn Thái, Ph.D.

North Wales, Pennsylvania

Ngày 12 Tháng 12 Năm 2023

Comments are closed.